Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 Toàn Chân Triết Luận

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 9:56 am

KẾT LUẬN
Đạo là sự Sống của Vạn vật. Con người, bởi tách lìa với Đạo, tạo ra một cái Bản ngã riêng biệt mới có thấy khổ.
Diệt khổ, tức là diệt Bản ngã. Ngày ấy, con người không còn sống trong cái Sống tư nữa, mà trở lại sống trong cái Sống của Toàn thể, ta gọi là hỗn hợp vào Đạo, hay là phản bổn hoàn nguyên, nên những vấn đề của lý trí tạo ra và căn cứ vào Bản ngã cũng tiêu tan đi mất…
Kẻ đặng Giải thoát rồi, thì hành động Vô vi như cành bông nở buổi rạng đông, chẳng phải vì muốn khoe sắc lịch với hương thơm, nó nở vì không thể không nở đặng. Hành động ấy tự bản tự căn, nên toàn thiện toàn mãn.
Hành động toàn mãn ấy, chẳng phải chỉ ở chỗ toàn mãn trong cái lẽ tự bản tự căn mà thôi, hành động ấy lại phải toàn mãn trong cái lẽ điều hoà của Tình và Lý nữa.(xem chương Tình và Lý trong quyển Toàn Chân Pháp Luận)
Hễ có quan sát, xem xét mọi vật thì lấy toàn thể mà phiếm luận, nên không cho cái chi là Quý, Tiện, Trọng, Khinh, Phải, Quấy…
Mỗi vật, dầu lớn bực nào cũng không thấy là lớn mà kinh sợ, còn nhỏ đến đâu cũng không xem là nhỏ mà khinh thường, vì mỗi mỗi đều có cái lý cao trọng siêu việt của nó đối với Toàn thể…Trong lòng họ vẫn thản nhiên bằng phẳng…Họ không tôn sùng thờ phụng ai, mà cũng không chê bai rẻ thị ai.
Biết rằng vạn vật trong Vũ trụ đều luân chuyển biến thiên mãi, nên học không lấy chi làm nhứt định mà tạo cái khuôn mẫu chi, để làm mô phạm chung, hạn chế sự sinh hoạt của nhân sinh. Họ cứ thuận biến theo hoàn cảnh, tuỳ thời mà lưu chuyển, chớ không dụng tư tâm mà hại Đạo, cũng không bày Nhân, Nghĩa, Bác Ái để phờ phĩnh lấy lòng…
Lại nữa, hễ Vạn vật hình thức thì có thỉ có chung, có sanh có tử…Thế nên, sanh ra cũng không lấy làm mừng, mà có chết cũng không lấy làm buồn. Đã là Sống trong cái Sống của Toàn thể thì cần gì phải tế tâm lo nghĩ nữa.
Họ không còn phân Nhĩ Ngã, tất nhiên không còn ý tham muốn thâu trữ chi nữa. Cho nên đặng cũng không lấy làm đắc ý vui sướng, mà mất cũng không lấy làm thất vọng buồn rầu. Bởi không cho đâu là Vinh, không cho đâu là Nhục. Vì vậy, mà sự khen không cảm được lòng, sự chê cũng không động đến Tâm đặng. Họ vượt ra ngoài chỗ nhỏ nhen tầm thường ấy…
Họ sống một cách tự nhiên, không dụng công, phấn lực; bươn chải vất vả…nên vẫn thản nhiên vui vẻ luôn luôn, không có gì câu thúc…
Họ chẳng cần đến Từ Bi, Bác Ái mới yêu thương người; cũng không vì Công đức Quả báo mới giúp đỡ khuyên lơn kẻ khác. Họ là Vạn vật, họ là Sự Sống vô cùng vô tận, họ là cái Đạo vô lượng vô biên, nên chỗ hành động, lưu chuyển biến hoá như con rồng, không biết đâu mà lượng nổi cái nhân cách của họ.
 

~o~o~o~o~ HẾT~o~o~o~o~

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 9:57 am

PHỤ LỤC
 A. SỰ HUYỀN VỌNG
Bản ngã là một sự ảo vọng, chớ không phải có thật.
Chỉ có Chân tính, (sự sống đồng lý với Đạo), hoạt động nơi ta mà thôi, (hoặc cảm giác hoặc tư tưởng) nhưng vì không đủ sức phát hiện ra một cách rực rỡ tinh lương và tự do, theo bản tính của nó, mà cái do vọng của Bản ngã phát sanh ra, đó là cái ảo vọng không có điều chi là thiết thực cả, chẳng qua, như ta bị muỗi cắn, mà ngứa…Bản ngã có, là khi ta tưởng tới nó mà thôi.
Ta có thể, trong một ngày, tiêu diệt cái giác cảm rằng, Ta là có (Bản ngã) đây, và lặp đi lặp lại cái thì nghiệm ấy đôi ba lần cũng đặng.
Kẻ nào, vì qúa mê mẩn, đem trút hết tinh thần và ý tưởng vào một việc làm của mình ưa thích, trong khoảng thu thần trụ ý đó, đã vượt thoát ra khỏi tâm lý của Bản ngã mà không hay. Cái đến lúc công việc ấy hoàn thành, học mới sực tỉnh lại, mới nhớ đến cái Ta đây mà thôi.
Thu thập cả tinh thần, để vào một hành động nào đó, cũng đủ chỉ rõ cho ta rằng Bản ngã, là một sự huyền vọng, bởi trong lúc ấy ta không còn thấy Ta là Có nữa.
Nói thế, thì con người khi được đem hết tinh thần quy tụ vào một việc gì, cũng có thể tạm gọi là đặng sống trong cái tâm lý đồng với cái tâm lý kẻ giải thoát sao? Không! kẻ còn Bản ngã, mà được như vậy, chẳng qua là sống đặng cái cảnh tương tợ với cái cảnh đã giải thoát, cũng như ta lấy cái tâm lý kẻ tự đi một cách nồng nàng chí nhân, chí thật, mà sánh với tâm lý kẻ kiêm ái, để hiểu mà thôi vậy.
Kẻ thường nhân, (chưa giải thoát), không thể sống trong tâm lý đồng với tâm lý kẻ giải thoát, vì hai lẽ:
1. Sự sống ngoài Bản ngã đây, là tạm thời mà thôi.
2. Trong khoản ấy, nó còn tùng một hành động khác, và nếu cái hành vi chủ động cho nó kia, ngưng đi, thì hành động của nó sẽ tiêu tan đi mất.
 
~o~o~o~o~o~o~o~
 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 9:58 am

B. LẼ BIẾN CHUYỂN CỦA VŨ TRỤ
Theo quan niệm toàn mãn của Đạo, tức là quan niệm vô vi, thì cho rằng Đạo là Toàn thiện, Toàn mãn, bất tăng, bất giảm nhưng cứ biến chuyển phát hiện ra, xuất sắc mới mẻ luôn luôn không bao giờ dứt, tỉ như hột ngọc kim cương phóng xạ màu sắc và biến đổi mới lạ luôn luôn, mà không thêm bớt trong hột ngọc chút nào vậy. Theo quan niệm này thì Đạo có là có; chớ không phải vì một tư ý chi, và đã đầy đủ sung bị rồi, không còn thêm bớt gì nữa.
Cho nên, con người (theo quan niệm nầy) đã có chứa sẵn nơi lòng cái Sống ấy, tức là Chân tính, nên không cần phải làm cho mình tiến hoá và trở nên một đều Toàn thiện chi, mà mình chưa có. Cứ lo diệt lấy Bản ngã, cái ảo vọng rằng mình là riêng với Vạn vật, thì mình được trở lại sống trong cái Sống của Chân tính của Chân tính của mình đã có trước kia, nhưng lợi một điều; là mình được hữu tâm trong cái toàn thiện của mình đây, mà khi ban sơ mình vẫn không dè; cho nên hãy gọi rằng: Ta sẽ trở lại sống trong cái sống của Chân tính ta, chớ không nên nói: Ta sẽ trở nên…Sẽ trở lại sống trong…là cái đại ý của lẽ hoàn nguyên còn Sẽ trở nên…là nói về có một lẽ tấn hoá nào đó!
Theo quan niệm Tiến hoá thì cho Đạo là chưa toàn, phải còn trở nên tận thiện. Bởi thế, Đạo thuộc về cảnh Hiện tại, cái Hiện tại gồm cả quá khứ vị lai (Có nhiều lý thuyết, trong đấy tạo ra nhiều lẽ tương phản nhau kỳ lạ lắm. Họ vừa công nhận cái quan niệm toàn mãn của Vũ trụ, vừa ưng chịu cái quan niệm Tiến hoá của Vũ trụ. Họ cho rằng con người là tiểu Kiền khôn, nghĩa là sung mãn như Trời Đất Vạn Vật, nhưng còn nói đến cảnh Tiến hoá để trở nên
một cái Toàn thiện mình chưa có, thì là mâu thuẫn lắm, độc giả hãy chú ý kẻo lầm…Đã cho
Đạo là Toàn mãn, mà lại công nhận cái Luật Tiến hoá nhứt định trước của Hoá Công là một
đều vô lý lắm. Sự luân chuyển Vạn vật không thể bao giờ biết trước được, như theo lý thuyết
của Bergson. Vạn vật biến chuyển luôn luôn, không sao hạn định… ) cho nên Đạo chẳng qua
như hột giống gieo xuống đất để nảy sanh muôn vàn hột giống khác, quên rằng mình nói
đây, đang đứng trong phương diện cá nhân, chớ không có đứng trong phương diện toàn thể
Con người, theo phương diện này, thì trong lòng không có chứa sẵn cái toàn thiện toàn mỹ.
Bởi thế, phải tiến hóa mới trở nên toàn thiện. Theo quan niệm Tiến hoá, con người hay ỷ lại
vào ngoại vật, để giúp cho ta tấn bộ, còn theo quan niệm Toàn mãn thì lấy Tâm làm chủ và
ráng làm làm sao cho được phản bổn hoàn nguyên mà thôi, không ỷ lại vào sự vật ngoài ta
cả, như thờ trời, thờ phật, tiên, thánh…để làm cái kế giải thoát.
Bởi thế nói về sự Tấn hoá, tức là nói về sự tăng gia của Bản ngã, cho nên đó là quan niệm Tiến hoá chớ không phải thuộc về quan niệm Toàn mãn của Đạo. Kẻ nào tư tưởng theo giai cấp, hay là ước mong trở nên cao trọng và quyền thế trong việc thiêng liêng, đó là cái triệu chứng rằng mình đã bị nhốt chặt trong quan niệm Tiến hoá. Theo quan niệm Toàn mãn, thì không có chi là lớn, không có chi là nhỏ; những kẻ cho mình là lớn hay cao trọng hơn kẻ khác trong đường Giải thoát tức là kẻ còn xa Đạo hơn kẻ nhỏ hèn khiêm tốn kia.
Có kẻ sẽ nói, nếu cho rằng Vạn vật không tiến hoá thì ra sự luân chuyển của Vạn vật đây không có mục đích chi và không do một luật Tiến hoá chi hay sao?
Không, như ta đã thấy trên kia, con người đã có cái mầm toàn mãn nơi lòng, nào có cần phải tấn hoá đến cái Toàn thiện chi khác nữa, chỉ lo diệt Bản ngã để trở lại sống trong cái Sống của Chân tính Toàn thiện Toàn mãn của mình (Cái Toàn thiện của Chân Tính lúc sơ khai, như cái Sống sung mãn của Đạo sanh với hột giống. Trong đấy, tuy chưa lộ xuất ra, chớ đã có đủ cái mầm của Toàn thể cái cây sau này. Cho nên, từ lúc mọc lên đến lúc trổ hoa sanh trái…ta không gọi là Tấn hoá, mà gọi là Hoàn Hiện hay là Phản bổn hoàn nguyên cái Đạo trong ta…mà thôi). Vũ trụ luân chuyển biến hoá đây, chẳng phải tấn hoá về một cái lý toàn thiện chi khác, vì tự nó đã toàn bị rồi.
Đạo sở dĩ lưu chuyển biến hoá chẳng qua như ngọc kim cương chiếu sáng, biến đổi màu sắc phong phú của nó. Không có tiến hoá, chỉ có dịch hoá mà thôi (xem chương Lẽ Cảm Sinh và Dịch Hoá trong bộ Toàn Chân Pháp Luận cũng một tác giả)
Đạo chẳng tạo thêm chi cả, vì nó là toàn túc. Đạo chỉ là sự biến hoá không bao giờ ngớt mà thôi. Đạo thì biến chuyển mới mẻ luôn luôn không bao giờ dứt, nhưng không làm tăng tiến, tấn hoá gì cả, chỉ có biến đổi trạng thái mà thôi, nên gọi là Biến tạo mà không kêu là tạo, tức là làm cho có thêm một đều mà mình còn thiếu.
 

~o~o~o~o~o~o~o~

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 9:58 am

 
C. CHÂN LÝ VÀ KHOA HỌC
Phần đông tưởng lầm rằng: hễ khoa học càng có kết quả vẻ vang chừng nào thì Chân lý càng được minh giải chừng nấy. Ấy là một đều rất lầm. Ta không thể dạm ráp lại muôn vàn chân lý tương quan rời rạt của khoa học đã tìm ra trong vạn vật mà làm thành cái Chân lý tuyệt đích, cái lý quán thông Vạn vật. Cái Chân lý của khoa học tìm biết, thuộc về cảnh sắc tướng, cho nên chỉ có biết được cái trạng thái mà thôi.
Huyền học dầu là cái khoa học kê cứu về những lẽ thực hiện trên những cõi siêu hình…cũng chẳng qua là cái học còn đứng bên chỗ biến động của sắc tướng mà thôi. Nhưng Chân lý tương quan rời rạc của những phần tử ấy, không phải cái Chân lý Tuyệt đối của Tâm học tìm kiếm. (Phần nhiều thường hay lầm về cái nghĩa chữ Tâm và huyền học. Huyền học chuyên về bên sắc tướng, còn Tâm học thì khảo về bản thể) Cái học của khoa học và Huyền học là cái học trục vật, nghĩa là đuổi theo từng vật, không phải như cái nghĩa Chủ nhất nữa.
Chủ nhất là chỉ chuyên chú cái thiên lý mà thôi. Vạn sự Vạn vật đều ở trong cái lý ấy, nó quán thông hết cả, chớ không trong ngoài khác nhau. Lý ấy gọi là Trời, Đạo, Tâm…cái danh tuy khác, nhưng vẫn là Một.
Henre Poincare nói: “Cái Chân lý của nhà triết học tìm hiểu chẳng phải cái Chân lý của nhà khoa học tìm tòi và gọi là túc ý.Chân lý của nhà triết học thì luân chuyển luôn luôn, những phần tử trong đấy tương liên, tương ứng với nhau rất mật thiết, tưởng cho khi ta muốn tách ra, không thể nào không xé tan rứt nát cho được. Cái Chân lý của nhà khoa học chẳng qua là một cái ảnh, cho nên, vẫn là một vật vô chuyền, vô thần, cũng như các bức ảnh khác, hay là một cái tương khảm tế công trong đấy những khuôn đá cẩn chỉ có ráp chồng lên mà thôi chớ không liên lạc với nhau chút nào cả.
 

~o~o~o~o~o~o~o~

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 9:59 am

D. “ TU ”
Tu là sửa, trau, hay bồi dưỡng…
Nhưng không mấy kẻ biết rõ cái nghĩa chữ “Tu” làm cho con người rất phân vân không biết phải làm thế nào:...Con người, ai là kẻ tu mà không muốn mưu một cái Hạnh Phúc? Chữ TU gồm ý chữ Phúc.
Thật vậy, cái Toàn Lạc là cái mục đích trong những hành vi con người. Từ cái vui thấp, hèn, ô trược, đến cái vui siêu việt thanh cao, con người chỉ có tìm cái Vui, cái Vui của sự Sống, cái Vui bất diệt. Nhưng, vì lầm, mà cái Lạc phúc ấy chỉ hạn định trong một khoản thời gian rất ngắn ngủi. Cái lạc phúc ấy là cái lạc phúc tìm trong chỗ thoáng qua, trong cảnh tương quan, tấc là cái Vui đối tượng của cải Khổ mà thôi. Tuy nhiên, trước sau chỉ có một chủ động thúc dục con người mà thôi. Chủ động ấy là lòng ham mộ Chân lý.
Biết vậy, ta có thể chia sự Tu làm hai phần rất phân biệt. Tu cái Bản ngã và Tu cái Chân tính. Tu cái Bản ngã là lo trau dồi Nhân, Nghĩa, Hiếu, Đễ nghĩa là tu cái Nhân Đạo. Tu Bản ngã là lo luyện đơn luyện phép, làm cho giai cấp thêm phân biệt, Nhĩ ngã thêm rạch ròi.
Tu cái Chân tính là lo diệt tư tâm, phá tan những thành kiến, tập tục, luân lý quá thời, Nhân, Nghĩa…để biểu lộ cái Sống tự nhiên của Chân thể ta, đặng cùng sống với cái Sống của Toàn thể…
Một đàng thì ta tu cho bản ngã càng ngày càng lớn, càng ngày càng mạnh, nhĩ ngã càng lớn, càng ngày càng mạnh, nhĩ ngã càng ngày càng riêng phân, càng ngày càng khác biệt.
Một đàng thì tu cho bản ngã càng ngày càng tiêu diệt, càng ngày Chân tính càng biểu lộ ra, Nhĩ ngã càng không còn phân biệt nữa.
Đó là cái Tu để Phản bổn hoàn nguyên vậy
 
~o~o~o~o~o~o~o~
 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 9:59 am

E. SỰ HOÀN HIỆN CỦA ĐẠO
Đạo, tức là sự Sống, hay là Chân tính của con người, ta có thể sánh với hột giống.
Trong hột giống, có đủ cả “Toàn thể cái cây sau nầy, nghĩa là: cây, lá, bông, trái…
Hột giống, là cái cây chưa hiện. Cây, là hột giống đang hiện. Lúc chưa biểu lộ ra. Nó đã
có một cách đầy đủ rồi. Cho nên, lúc đang hiện ra, bắt từ khoản trổ lá, đến đâm bông, trổ trái…ta không thể gọi đó là Tấn Hoá cho đặng. Mà phải nói: Ấy là khoản cái cây đang hoàn
hiện cái toàn thể của sự Sống nó.
Đến lúc nó trổ trái, chín thành hột giống cũng như cái hột giống trước kia của nó (ta thường gọi lẽ ấy là phản bổn hoàn nguyên) chớ không phải thối lui lại, trở lại cái hồi đầu của ta, như xuân qua, hạ đến thu mãn, đông sang rồi tiếp xuân hạ thu đông khác…luân chuyển tới luôn luôn…cái xuân nầy không phải cái xuân kia…mà vẫn là trở lại cái hồi đầu của một vòng luân chuyển.
Krishnamurti nói: “Cá nhân, nhờ giải thoát mà xé tan cái màng chia rẽ mình và Đạo (nghĩa là Toàn thể Vũ trụ). Đây không phải nói về sự tấn hoá cho thêm to, thêm lớn chi, mà chỉ phải làm làm sao trở nên cái điều mà ta đã có sẵn, ẩn lực nơi lòng ta mà thôi.”
 
 ~o~o~o~o~o~o~o~
 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 10:00 am

F. LỘC TRỜI
Người họ Điền, nhơn dịp kị giỗ, mời thân hảo trút ngàn người. Khách đến, theo lệ, đem lễ rất nhiều. Có một người khách kiến cá ngon và nhạn rừng…Người họ Điền, thấy, thở ra một cách hoài kính và nói: “Trời đãi ta rất hậu! Đã chẳng những sanh ra thóc lúa và muôn vàn hoa thảo cho người…mà lại còn ban cho những cá, chim cho người dùng nữa…Thật, Trời đãi người rất hậu”. Bao nhiêu khách đều khen là phải. Chỉ có đứa con nhà họ Bảo, tuổi mới mười hai (Đứa nhỏ mười hai tuổi đây, là ám chỉ kẻ còn Xích tử chi tâm, chưa có tư tâm..) bước ra nói: “Những lời của ngài nói không chánh lý. Trời, Đất đây cũng là những sinh vật như những sinh vật khác thay, huống chi con người, không vật nào trọng, vật nào khinh. Trọng, Khinh, Quý, Tiện chẳng qua là một cái cớ để lớn ăn thịt nhỏ, khôn hiếp dại, mạnh lấn yếu mà thôi. Chớ nào có phải Trời vì loài này mà sinh loài khác đâu. Người ăn gì
được thì ăn, dùng được gì thì dùng, nhưng chớ có dụng tâm cho rằng Trời vì người mà sanh
ra vạn vật. Nếu nói thế, thì cũng phải nói Trời sanh người là để cho loài muỗi hút máu, để
cho loài cọp ăn thịt hay sao?”
 
- Liệt Tử -
 
(Con người bởi sống trong Bản ngã, nên lấy tư tâm mà luận mọi sự. Thấy có mình thôi, nên vạn vật sanh ra cũng vì mình mà sinh, và cũng chỉ vì có một mục đích ấy mà thôi. Muốn thấy đặng cái lý thật của mọi vật, thì chớ bề khi nào lấy tư tâm mà luận. Bởi chấp mình làm trung điểm của vạn vật, mới có dụng tâm mà chế ngự vạn vật, lợi dụng kẻ khác để làm lợi khí cho tư dục…Thú vật có sanh ra là để cho ta ăn, Thái
dương có là để soi sáng cho ta mà thôi…- Xem bài Kìa thử xem hoa xuân phong nhuỵ…trong quyển Trường Lạc Ca)
 
~o~o~o~o~o~o~o~

 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 10:01 am

G. CHÍ NHÂN
Đời Thương, quan đại tể tên Đảng hỏi Trang Tử cái nghĩa của chữ Nhân(1).
Trang Tử nói: “Đó là cái đức của hổ lang”.
Đảng nói: -Sao vậy?
–Trang Tử nói: Cha con chúng nó cũng biết thân nhau, sau gọi không nhân?
-Đảng nói: Còn chỗ Chí Nhân là sao?
Trang Tử nói: Chí Nhân không thân với ai hết.
-Đảng nói: Tôi có nghe nói không thân thì không thương, không thương thì không thảo. Gọi người Chí Nhân không thảo, đặng chăng?
Trang Tử nói: Không phải vậy. Chí Nhân là lòng tốt vô hình và bơ thờ, không nghịch với lòng tốt hữu hình và quyết định, nhưng mà nó phân biệt cái hữu hình ra. Thương, mà bởi đứng cao quá và xa quá, nên không thấy vật. Bởi vậy, ở tại ấp Dĩnh ngó qua hướng bắc, không thấy nui Minh San. Nhưng mà núi Minh San có. Tại sao vậy? Tại xa quá. Hiếu mà được cận với chỗ Chí Nhân, là khi nào con thương cha mà không thân với cha. Cha thương con mà không thân với con. Thương thiên hạ mà không thân với thiên hạ, và làm cho thiên hạ thương ta mà không thân với ta. Đó là được đến chỗ Chí Nhân. Hay làm ơn, hơn Nghiêu Thuấn mà không màn đến, hay làm phải cho mọi người mà không ai dè, đó là chỗ Chí Nhân, tày với lòng vô tâm (vô vi) của Trời Đất mà làm cho Vạn vật đặng toại sinh vận động. Ông thấy chưa, yêu mến theo lòng thảo, không đủ mà hiểu điều đó. Thật vậy, Hiếu, Đễ, Nhân, Nghĩa, Trung, Tín, Trinh, Liêm, hết thảy mấy cái đức đó đều ở trong cái Chí Nhân, nhưng bởi sánh với chỗ tôn đại của Chí Nhân, nên nó xem còn nhỏ nhen lắm. Người ta nói: đồ trang sức không thêm chi cho người tuyệt sắc; của thưởng không thêm chi cho người cực phú;
tước lộc không thêm chi cho người cực quý. Ai đắc đến chỗ Chí Nhân cũng thể ấy, Chí Nhân
không khác Đạo, người Chí Nhân nếu gặp dịp cũng thật hành hết các đều nhân hạng thấp
thôi đó nhưng các đều ấy cũng không thêm nhân phẩm chi cho nó hết. Chẳng phải do mấy
đều kể ra đó (Nhân, Nghĩa, Trung, Tín…) nghĩa là do sau trở lại trước, mà giải đặng cái nghĩa của Chí Nhân – mà phải do Đạo, nghĩa là do cái trước tới cái sau, mới giải đặng tới cái nghĩa của Chí Nhân vậy.
 
(Trang Tử)

~o~o~o~o~o~o~o~ 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 10:02 am

 
CÂY BÁCH THỌ
“Đây, là một cây cổ thụ. Con người đem chặt ra một nhánh, và chọn lấy một khúc dùng đặng để làm một cái chén cúng, chạm trổ cực kỳ hoa lệ, đặng dùng vào việc tế lễ, còn khúc kia, cho rằng vô dụng, đem quăng xuống bùn lầy…Rồi ta gọi cái chén cũng là đẹp đẽ, còn khúc cây kia là xấu xa.
Còn ta, ta (Ta đây, là Trang Tử nói) cho rằng: cái chén cúng và khúc cây bỏ kia đều là xấu xa cả, vì chúng nó không còn là chúng nó nữa, nghĩa là không còn là cái cây tự nhiên, mà là những vật hư hỏng (Xem bài Luân lý và Chân tính trong quyển Toàn Chân triết luận)
Theo lẽ ấy, tên Chích và tên Tăng, tên Sử kia, ta cũng luận xem một thể. Thiên hạ cho Chích là đứa vô đạo bạo ngược, còn Tăng Sâm (có tiếng là đại hiếu), Sử Ngư (người đời Xuân Thu, thờ Linh Công. Khổng Tử khen là người rất trung thực) là bực đạo đức hiếu nghĩa và trung thực. Theo ta thấy thì cả thảy đều lầm lạc về cái chỗ làm cho mình không còn là mình nữa, bởi những kẻ ấy đều hành động trái với Bản tính của mình cả, dầu cho những việc mình làm có thiên về đều Phải hay đều Quấy cũng vậy (Con người sở dĩ không còn sống đặng trong Bản tính mình, vì từ lúc ấu trĩ đến trưởng thành, đều bị sống trong những khuôn khổ eo hẹp nhứt định của gia đình, xã hội, những tập tục, luân lý…làm cho con người không còn hành động theo cái lý tự nhiên của mình nữa. Có kẻ sẽ nói: “Như kẻ gian ác kia, nếu không có luân lý hạn chế, thì hại cho Xã hội lắm!” Đây là cái chỗ lầm của con người. Kẻ gian ác sở dĩ gian ác, vì bởi xã hội chung quanh: cha me, anh em, bà con…trước mặt nó hay tôn kẻ đạo đức, quyền quý, khinh kẻ vô lương, hèn hạ. Trong lúc ta đi ngang một người đạo đức, quyền quý, ta cúi đầu quá cung kỉnh, còn khi ta đi ngang kẻ vô lương, nghèo đói, thì lại ra dáng kiêu xấc, khinh khi…trong khoảng đó, ta là kẻ tội nhân xúi dục lòng thiên hạ tham lam…Ta là nguyên nhân của những điều gian xảo, xu danh, trục lợi của con cái ta về sau này.
Không ắt, trong lòng kẻ niên ấu kia có sẵn cái tánh tham gian u uẩn. Trái lại cái bản tính tự
nhiên đó rất tốt lành trong sạch, vì bị Giáo dục và những gương Xã hội chung quanh mà làm
cho hư hỏng cái bản tính thiên nhiên ấy. Biết bao điều không thể kể hết ra đây cho đặng, nếu
ta chịu khó để ý xem xét chung quanh ta, ta sẽ thấy, con người sở dĩ tàn bạo hung hăng tham
xảo chỉ vì ta và Xã hội quá trọng kẻ quyền môn, đạo đức…mà ra.
Bởi ta quá trọng kẻ đạo đức, nên kẻ ngu nhơn muốn đặng cái chỗ tôn trọng ấy, trở nên một bực giả đạo đức rất hẹp hòi câu chấp trong những lễ phép vụn vặt chặt chẽ. Muốn cho đời ban khen là người đạo đức, con người, có khi trở nên lãnh đạm, tàn nhẫn câu nệ trong những tiểu tiết, gắt gao bó buộc trong những đều tình nghĩa tự nhiên, tự mình rất khổ tâm, lại làm cho chung quanh mình khổ sở đau đớn, mà lòng vẫn như thường.. )
Thế thì cái đều suy bại của nhân cách do nơi đâu? Có phải là do nơi những lý thuyết về ngũ sắc, làm cho mắt ta không còn trông thấy tự nhiên nữa chăng? những lý thuyết về ngũ vị
làm cho lưỡi ta không còn nếm đặng một cách tự nhiên nữa chăng? những lý thuyết về văn
chương làm cho ta rối loạn và không còn đơn sơ chất phác nữa chăng?
Đó là những quân nghịch của Bản tính ta, trái lại nó là những đều sở thích của Dương Châu Mặc Địch. Ta thì khác, ta không cho những mỹ thuật tạo ra là đều hay. Những mẫu luật thành lập do nơi tư tâm tạo ra (Tư tâm tạo ra, nghĩa là do theo tư ý tạo ra, không kể gì đến Toàn thể. Cũng như cái cây trước kia, chẳng phải tạo hoá sanh ra để làm chén cúng, tức là lấy tư ý lợi dụng nó để tạo ra một vật cần dùng theo ý của con người; cho rằng nó có, là để cho ta lợi dụng tha hồ theo ý muốn. Lại rồi, còn cho cái nầy là quý giành cất kỹ lưỡng, còn cái kia là hèn, đem mà quẳng, ném một cách khinh bỉ. Con người ở đời cũng thế. Muốn lợi dụng kẻ khác để làm một mối lợi riêng, nên tạo ra Nhân, Nghĩa, Hiếu, Đễ…để lợi dụng. Nhà vua muốn cho kẻ khác thờ và binh vực quyền lợi mình, tạo ra những lý thuyết Trung, Nghĩa…để con người làm một vật thoả dụng của tư tâm. Con người vì đó không còn là con người nữa…mà là một vật vô hồn chỉ để làm một cái lợi khí cho kẻ bề trên mà thôi.
Hễ kẻ nào dễ uốn nắn theo tư ý ta, ta sẽ gọi là đạo đức quân tử, cũng như khúc cây nào ta dùng được theo ý muốn của ta, ta gọi nó là khúc cây tốt, còn kẻ ta lợi dụng không đặng, thì ta gọi là vô đạo tiểu nhân, cũng như khúc cây nào ta lợi dụng không đặng như ý ta muốn,
ta gọi là xấu xa mà vứt bỏ một cách khinh bỉ -Ncan.) thì rất bó buộc phiền tạp, làm sao mưu
được cái hạnh phúc cho con người?
Cái hạnh phúc hoàn toàn có phải là cái cảnh lạc thú của chim bồ câu nhốt trong lồng, hay là cái lạc thú của nó khi bay thong thả giữa trời xanh mây bạc?
Thương hại thay! Những lý thuyết Nhân Nghĩa của họ chẳng qua là một trò chơi trẻ con để làm cho bấn loạn tâm trí bề trong, còn Lễ Nhạc bày ra chẳng qua là cái dây thắt buộc hình thức bề ngoài của ta.
Bị áp bức còng trói như thế, bây giờ ta phải lấy chi so sánh cho vừa? Sánh với kẻ tội nhân kia bị hành thân khảo kẹp chăng? Sánh với những con mãnh thú bị nhốt trong lồng chăng? Như vậy, ta có kêu là Toàn phúc đặng chăng ?
 
(Trang Tử)
 

~o~o~o~o~o~o~o~

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 10:03 am

TÀI VÀ BẤT TÀI
Trang Tử cùng các đệ tử, một hôm, đi chơi trên núi. Thấy một cây to, cành lá rườm rà.
Một người thợ rừng, đốn cây chung quanh, mà không động đến cây ấy.
Trang Tử hỏi: “Vì sao không đốn cây nầy?” Người đốn cây nói: “Cây nầy thịt nó vô dụng”…
Trang Tử nói: “Cây nầy nhờ vô dụng mà khỏi chết”(ám chỉ kẻ để người lợi dụng được, nên gọi là hữu tài…)
Qua khỏi núi, Trang Tử ghé thăm người quen. Chủ nhà mừng rỡ, bảo đứa ở đem chim nhạn làm thịt.
Đứa ở hỏi: “Một con biết kêu, một con không biết kêu. Giết con nào?” Chủ nhà nói: “Con không biết kêu”(ám chỉ để người lợi dụng được, nên mới có kẻ đời không lợi dụng được phải bị hại: mà người đời cho là bất tài…Đây Trang Tử muốn chỉ hai hạng người, chỉ vì bị hạn định trong hành vi mà bị luỵ…)
Hôm sau, đệ tử hỏi Trang Tử: “Cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con nhạn, vì bất tài mà chết. Vậy thời, hữu tài hay bất tài cũng đều luỵ cả. Giả như Thầy phải xử trí thế nào?”
Trang Tử cười và đáp: “Cái đó cũng tuỳ theo cảnh…Chỉ có kẻ vượt thoát ra khoảng Tài và bất Tài mới yên thân đặng. Chỉ có kẻ đạt được cái Lý của Đạo và thông được cái Chuyển của Đạo rồi, giữ lấy mực vô vi mà xử sự, mới đặng toàn thân thôi. Những kẻ ấy, đứng ngoài chỗ khen chê (nên đời không lợi dụng được. Bởi nô lệ lấy tiếng khen chê, mới làm được con vật sai sử cho kẻ khác lợi dụng), lúc lên như rồng, lúc sà như rắn, biến thông theo thời cảnh, không cố chấp trong chỗ thành kiến chi chi. Địa vị có cao, hèn cũng tuỳ thời mà thuận cảnh, cứ để vạn vật yên trong chỗ tự nhiên…rồi thì, tới đâu hay đó, không còn phải lo sợ gì nữa (Chỉ có kẻ đứng trên chỗ Tài và Bất Tài; kẻ hiểu và thông lẽ biến chuyển của Đạo, linh hoạt trong Chân tính đồng lý với Đạo, là không luỵ thân mà thôi. Hễ liệt vào chỗ Tài hay bất Tài, chỗ tài và bất tài đây, không phải là cái Tài thật của mình, mà là cái tài của kẻ khác ban cho, vì họ dùng được mình, là còn để cho Đời đả động đến được, chỉ bực siêu nhân, đời không còn gọi là tài hay bất tài cho đặng na…thì mới mong đặng toàn thân thôi). Đó là cái hành động của Thần nông và Huỳnh đế. Đến những bực tự xưng là Thánh trí ngày nay (ám chỉ Đức Khổng Tử và các đệ tử) thời làm trái lại. Thế nên thiên hạ thì loạn, còn việc làm mình thì hư hỏng…Vì hễ có tụ có tan, đặng rồi kế mất. Làm đặng thì con người chê, giỏi thì có kẻ ghét…(Thần Nông Huỳnh Đế không lợi dụng thiên hạ, nên thiên hạ thái bình. Đến Nghiêu Thuấn về sau, dụng tư tâm bày Nhân Nghĩa…để làm con người không được toại sinh trong cái Bản tính mình nữa, nên đời loạn…Bởi dụng kẻ hiền nhân quân tử(con nhạn biết kêu) mà kẻ tiểu nhân hèn hạ (con nhạn không biết kêu) mới bị thừa thãi khinh miệt…Lúc bấy giờ kẻ hữu tài hay bất tài đều phải luỵ cả, vì không còn là mình nữa. Luỵ đây là luỵ cái Chân tính mình vậy. Bây giờ cũng như trước kia, chỉ có kẻ Siêu Nhân, vượt thoát ra khỏi khoảng tài và bất tài, là toàn thân. Kẻ giải thoát đặng là cái tiếng khen chê của dư luận, là kẻ không để người lợi dụng được mà thôi. Bởi nô lệ lấy tiếng khen chê, mà đời lợi dụng cái tính hiếu danh của ta được vậy)
Đệ tử hãy ghi nhớ lời nầy: chỉ có bực đạt được cái Lý và thông được cái Chuyển của Đạo là trường cửu mà thôi (Lỗi này, cũng chỉ tại Kẻ để cho người lợi dụng, kẻ nô lệ lấy tiếng khen chê, không đủ sức tự cường, tự kiện…mới tạo ra hạng người lợi dụng. Trách kẻ lợi dụng ta, đúng lý hơn, phải trách ta, là kẻ để cho người lợi dụng. Thật vậy, nếu không có hạng người bị lợi dụng, thì làm sao có sanh ra hạng người lợi dụng. Chỉ như kẻ đứng ngoài vòng dư luận, đứng trên chỗ Tài và Bất Tài (của kẻ khác bày ra để lợi dụng theo tư ý họ) thì làm sao đòi lợi dụng họ được mà bị luỵ…? Xử trí được như thế, chỉ có người am hiểu được cái Lý và cái Chuyển của Đạo mà thôi. Bởi Chân Nhân làm mà không bao giờ mắc trong cái làm, ở trong sự mà không bao giờ mắc trọng sự nên được giữ toàn chân lạc phúc. Vì sao? Vì Chân Nhân sống trong cái chuyển, tức là trong một trạng thái của Đạo, mà tấm lòng vẫn yên trong cái Lý, nên không bận, không mắc trong những trạng thái tạm thời…thì làm sao phải luỵ đến Thiên Chân.
 

~o~o~o~o~o~o~o~

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 10:04 am

THU THUỶ
Lúc nước thu dưng, trăm rạch đổ vào Huỳnh hà. Lòng sông rộng cho đến đứng bờ nọ, ngó qua bờ kia không phân biệt bò với ngựa. Thấy vậy, Hà thần đắc ý cho trong thiên hạ không còn ai hơn mình. Thuận dòng đi tới biển bắc, ngó qua hướng đông, không thấy mé, mới than với Hải thần: “Lời tục nói: kẻ biết ít cho không ai hơn mình. Lời ấy để nói tôi thì phải. Tôi thường nghe chê chỗ thiếu học của Trọng Ni, nghe khinh lòng nghĩa sĩ của Bá di, mà tôi không tin. Nay tôi mới thấy chỗ nan cùng của ngài. Nếu tôi không đến thọ giáo với Ngài, thì hại cho tôi lắm, vì các nhà đại phương sẽ chê cười tôi”
Hải thần nói: “Cùng ếch giếng không thể nói biển đặng; nó biết có cái hang mà thôi.
Cùng con trùng mùa hạ, không thể nói giá tuyết đặng; nó biết có một thời mà thôi. Cùng kẻ sĩ hẹp hòi, không thể nói Đạo đặng; nó bị ràng buộc trong giáo thuyết nó mà thôi. Nay ngươi
ra khỏi lòng sông, thấy biển cả mà biết tự hổ. Vậy thì nói đại lý với ngươi đặng. Dưới trời,
nước không đâu nhiều hơn biển. Đó là nơi muôn sông chảy về, không bao giờ ngưng, mà
không bao giờ vơi. Rồi nước biển lại chảy qua ngả đông, không bao giờ thôi, mà không hề
lưng. Xuân, thu, mưa, nắng không đổi nó, mà nó cũng không hay. Hơn rạch sông không biết
lượng số nào, mà ta chưa thường cậy đó là nhiều, khi ta tự sánh với Trời Đất Âm Dương. Ta, trong trời đất, chẳng khác đá nhỏ, cây nhỏ trong núi lớn. Đã rằng là ít, sao gọi mình nhiều?
Bốn biển ở trong trời đất, chẳng phải cái hang nhỏ ở trong chầm lớn hay sao? Vạn vật, lấy số
muôn mà nói, thì người được có số một mà thôi. Lấy chín châu, là nơi lúa thóc sanh sản,
thoàn xe thông hành mà sánh, thì người cũng không qua số một. Người đối với Vạn vật, khác
nào một cái lông trong mình ngựa. Chỗ liên hiệp cửa ngũ đế, chỗ tranh giành của tam hoàng;
chỗ lo lắng của người nhân, chỗ nhọc nhằn của quan sĩ, rốt lại có chi; Bá di từ ngôi, lấy đó làm danh, Trọng Ni nói ra, gọi vậy là rộng. Mấy hạng đó tự cho mình là nhiều, khác nào ngươi trước khi thấy biển”
Hà thần hỏi: “Vậy thì tôi cho trời đất là cực đại, cái lông là cực tiểu, có được không?
Hải thần nói: “Không được. Muôn vật biến chuyển không cùng, thời giờ thi mãi không
dừng, số phận dời đổi không thường, trước sau liên tiếp không thôi. Ấy nên, đứng chỗ biết
rộng đây mà xem việc xa gần, thì thấy nhỏ ta không cho là ít, thấy lớn không gọi là nhiều; đó
là biết được chỗ biến không cùng. Luận qua kim cổ thì việc đã qua, không vì đó mà ưu tư, việc đương thời không lấy đó làm bận lòng. Đó là biết được chỗ không dừng của thì giờ. Xét
việc lưng vơi, thì đặng không vui, mất không buồn; đó là biết được chỗ không thường của số
phận. Thấy đặng như vậy, thì sống không mừng, chết không lo. Đó là biết được chỗ trước
sau liên tiếp vậy.
Chỗ biết của người, ít hơn chỗ không biết. Thủa sanh ra không bằng thủa chưa sanh.
Muốn lấy chỗ cực tiểu của mình mà cầu hiểu tận cái cảnh của cực đại, thì là mê loạn và là một đều ngu xuẩn đó. Thế thì, làm sao biết cái lông đủ để làm cái mẫu của cái cực tiểu, làm sao biết trời đất đủ để làm cái mẫu của cái cực đại?”
Hà thần hỏi: “Luận giả trong đời đều nói: “Một vật tán ra rất nhỏ thì thành ra vô hình; một vật tăng cho thật lớn, thì là vô cùng, có thật vậy không?”
Hải thần nói: “Tự nhỏ xem lớn, làm sao thấy trọn; tự lớn xem nhỏ, làm sao thấy rõ.
Tinh, là mọn mạy của nhỏ; thô, là to tát của lớn. Tinh với thô đồng có trong mỗi vật. Vật vô
hình không phân chia đặng; vật vô cùng không hạn định đặng. Cái mà luận, nói đặng, là cái
thô của vật, cái mà y xét đặng là cái tinh của vật. Còn cái mà lời không thể luận, ý không thể
xét là bởi nó không phải tinh, không phải thô, cái đó là cái trực giác, phải dụng tâm hiểu nó
mà thôi.
Nhờ trực giác mà đại nhơn làm nhiều việc khác hơn tiểu nhơn, nhưng không khinh bỉ tiểu nhơn là hạng không trực giác. Đại nhơn nầy, tước lộc của không đủ khuyến, hình phạt không đủ nhục, bởi họ biết phải quấy không phân đặng, lớn nhỏ không hạn đặng. Bởi vậy mới có lời nầy: “Bậc đại nhơn, không ai nghe danh, người chí đức không tìm chi hết, đấng đại nhơn không còn cái Ta (bản ngã), vì họ đã nhập làm Một cùng Vũ Trụ.”
Hà thần hỏi: “Nhờ đâu mà phân chỗ trong ngoài của vật, chỗ quý, chỗ tiện, chỗ nhỏ, chỗ lớn?
Hải thần nói: “Lấy con mắt Đạo mà xem, thì vật không có quý tiện. Lấy con mắt vạn vật mà xem, thì vật có quý có tiện, là bởi vật nào cũng tự quý, nên khi sánh lại với người, thường cho vật khác là tiện. (Đứng trong phạm vi bản ngã). Trong con mắt người tục, sự phân quý tiện thường lại không tại nơi mình. (Bị nhốt trong phạm vi tập quán). Lấy con mắt khách quan và tương đối mà xem, thì vạn vật là lớn khi đối với cái nhỏ, là nhỏ khi đối với cái lớn. Biết trời đất nhỏ như hột lúa, biết cái lông lớn như hòn núi, cũng nhờ con mắt ấy. Đứng phương diện công ích mà xem, thì vạn vật, nhơn chỗ sở trường của nó mà đặng gọi là hữu ích; nhơn chỗ sở đoản của nó mà gọi là vô ích. Biết đông, tây là hai lẽ phản đối nhau không thể không vậy cho đặng, cũng nhờ con mắt đó. Tuỳ theo chỗ thích hợp của mỗi người, thì trong vạn vật, cái chỗ của người nầy, tức là không còn cái chỗ thích của người kia. Nghiêu với Kiệt có chỗ hạp, có chỗ không hạp. Xưa Nghiêu, Thuấn nhường ngôi mà làm vua; còn Khoái cũng nhơng ngôi mà phải mất. Thanh Võ tranh mà đặng ngôi; Bạch Công tranh mà phải chết. Do đó mà coi, trong lẽ tranh, nhượng, trong hạnh của Nghiêu, Kiệt, quý tiện tuỳ thời chưa lấy đó làm mực thường được. Cái tương lê dùng phá thành, không dùng lấp hang đặng; phương pháp khau. Ngựa kỳ kỳ một ngày lướt ngàn dặm, mà không bắt chuột đặng, như mèo; tài năng khác nhau. Chim ụt ban đêm, mắt tỏ đến bắt rận, đếm lông nó đặng, mà ban ngày, hòn núi sờ sờ không thấy đặng; tánh khác nhau. Nên, muốn có phải mà không có quấy, muốn có trị mà không có loạn là chưa rõ cái Lý của Trời Đất, cái Tình của Vạn vật. Ấy là mơ tưởng Trời mà không Đất, Âm mà không Dương đó. Muốn phân hai lẽ tương phản đó ra làm hai vật có thật, thì là Ngu. Đế vương tranh nhượng nhau, hễ sái thì nghịch tục, gọi là soán, còn nhằm thì thuận tục, gọi là Nghĩa.
Hà thần nầy, ngươi hãy lẳng lặng mà xét lại, ngươi sẽ rõ cái gốc của Quý, Tiện, của Đại, Tiểu.”
Hà thần: “Vậy thì bây giờ tôi phải làm đều gì? phải không làm đều gì? nhận cái chi? Tôi phải sao đây?”
Hải thần nói: “Đứng bên phương diện Đạo, có chi gọi là Quý, có chi gọi là Tiện, có chi gọi là ít, có chi gọi là Nhiều, có Một mà thôi. Để cái chi ra ngoài Đạo, là lầm đó. Phải theo thời theo thuở. Phải nghiêm nghị như một vị quốc quân không tư đức; tự nhiên như một vị địa thần không tư phúc. Muôn vật một hạng, không vắn không dài. Đạo không chung thỉ, Vật có tử sanh, không thường. Dinh hư chung thỉ nối nhau. Đó là nói cái phương của đại nghĩa, luận cái lý của vạn vật. Mạng sống của vạn vật qua như ngựa chạy, không động biến, không đổi dời.
Hỏi: “Phải làm đều gì? phải không làm đều gì?...” có chi lạ, phải đo đường biến chuyển của tạo hoá, phải theo thời theo buổi; có bao nhiêu đó mà thôi.”
Hà thần hỏi: “Vậy chớ chỗ quý của Đạo là chỗ nào?”
Hải thần nói: “Người biết Đạo thì thông lý. Thông lý thì rõ quyền. Rõ quyền thì không
vật nào hại được. Người chí đức vô lửa không nóng, xuống nước không ngột. Lạnh, nóng
không hại đặng; cầm thú không phạm đặng. Nói vậy, chẳng phải là nói người chí đức không
sợ mấy chố nguy hiểm đó, ấy là muốn nói, người chí đức xét kỹ lúc tới lui nên lánh nguy,
cẩn thận cử chỉ nên khỏi hoạ. Nên nói: “Trời ở trong, người ở ngoài. Đức ở nơi Trời” Phải cho trời đặng siêu xuất, hầu cho hành vi hạn với bổn nguyên.
Hà thần hỏi: “Sao gọi là Trời, sao gọi là Người. Hải thần nói: “Ngựa bò bốn cẳng đó là Trời, (bản tánh của nó). Ngựa ngậm hàm thiết, bò đeo khuyên nơi mũi, đó là người, (nhơn Đạo, trái với bản tánh). Người không đặng ém Trời, nhơn tạo không đặng hại thiên nhiên, hư nguỵ không đặng phá chơn thật. Phục hồi cái bản tánh mình lại, đó là trở về Chân Lý”
- Trang Tử -


~o~o~o~o~o~o~o~

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 10:04 am

BỆNH QUÊN
 
Nước Tống, có người tới tuổi trưởng thành, khi không mắc phải bệnh Quên. Buổi sớm ai cho cái gì, buổi chiều đã quên. Ngày nay làm cái gì, ngày mai đã quên. Ra đường quên tới đi, ở nhà quên tới ngồi. Những điều làm trước kia, bây giờ quên hết, bây giờ làm chi, sau nầy cũng quên mất.
Có ông thầy nước Lỗ (ám chỉ Đức Khổng Tử) đến xem trị giúp, người nhà hứa sẽ chia hai gia sản, nếu chữa hết…
Ông thầy nói: “Bệnh quên nầy, dầu cúng kiến, thuốc men, cũng không sao chữa được.
Vậy thì ta, thử hoá cả tâm tính, may ra có thể cứu được chăng? Bằng không được, thì ta phải
chịu phép.
Nói xong ông Thầy, thấy người bệnh biết xin áo khi trần mình, xin cơm cháo lúc bụng đói, xin đem ra sáng lúc ở trong tối…Ông nói: “Bệnh này cứu được, nhưng phương pháp ta rất mật nhiệm, không truyền cho ai được…”
Ông bèn đóng cửa kín lại, để người bệnh và ông trong một phòng mà thôi. Không biết ông làm gì, mà bảy ngày sau, cái bệnh lâu ngày kia, lại tức khắc khỏi ngay. Lạ thay! Khi người bệnh tỉnh trí như thường, thì nổi cơn giận dữ, rầy mắng người nhà, lại cầm dáo đuổi theo ông Thầy…Người ta bắt lại, hỏi vì sao giận dữ như thế, thì người bệnh kia nói: “Hỡi ôi!
Lúc trước ta khoan khoái vui sướng là thế nào! Trời Đất có, hay không, ta cũng không cần biết. Bây giờ ta phải ký chú trong trí nhớ nào những điều đã qua vài mươi năm về trước, nào những việc đặng, việc thất; việc buồn, việc vui; việc thương, việc ghét…lại còn phải lo lắng sự sẽ đến sau nầy. Ta chỉ e từ đây, có muốn được một phút vô tâm lạc thú ấy thì liệu phải làm thế nào cho được nữa. Tử Cống nghe câu chuyện ấy, hỏi nghĩa nơi Đức Phu Tử. Ngài nói: “Ngươi hiểu sao nổi; Hồi, nó có thể hiểu mà thôi”.
 
(Liệt Tử)
 
Lời bàn: Người mắc bệnh quên đây, là ám chỉ bực Chân nhân đã diệt Bản ngã siêu hình rồi, nghĩa là đã đến chỗ cùng tột của sự Giải thoát. (Xem bài Bản Ngã siêu hình)
Đây cũng là cái nghĩa của câu: “Thỉ hồ thích nhi vị thường bất thích giả, vong thích chi thích giả, của Trang Châu. Ngài cho rằng làm mà còn hay mình làm, cái làm ấy chưa toàn.
Hữu đức mà không dè mình hữu đức mới thật là hữu đức. Cái Toàn Thiện chỉ ở trong chỗ Vô Tâm vậy.”
Thật vậy, bực Chân Nhân, là kẻ đã sống thuận với Đạo, nên làm mà vô tâm, như ngũ tạng ta lúc mạnh, nó vẫn linh hoạt mà ta không dè nó có. Đến khi có một tạng nào sống không thuận, nghĩa là sống không đồng nhịp với cái sống chung của Toàn thể: bấy giờ ta mới hay nó là Có. Tạng phủ nào không sống thuận với cái sống chung của toàn thể châu thân, ta mới hay nó là Có. Sự đau đớn, tức là cái khổ hạo cho ta biết rằng, ta đã làm trái với lẽ tự nhiên (thiên nhiên) rồi vậy. Về sự ta đối với Đạo cũng thế. Nếu ta sống đặng trong Chân tính nghĩa là sống đặng thuận với Đạo, thì ta không hay rằng mình là Có. Đến khi thấy mình là Có, đó là cái triệu chứng rằng ta đã sống nghịch với Đạo, đó là ta khởi đầu có cái đau khổ vậy.
Bây giờ ta muốn trở lại sống trong chỗ Vô Tâm, thì phải sống hoà làm một lại với Đạo, thuận theo lẽ Trời. (Xem chương Lẽ Trời). Được vậy, muốn biết có mình, cũng không thể muốn được. Tuy rằng cái Ta đây Có đó thật, nhưng ta bây giờ cũng không cần biết đến nó Có hay không có mà làm gì…
 Trời đất có cùng không ta cũng chẳng quản…
Nếu đặng sống trong cái Thường tại của bản tánh thì những trạng thái biến đổi tạm thời kia có gì phải quan tâm…Đã là tạm thời mà nói Thị nói Phi, thì cảnh qua, Thị, Phi, cũng vì đó mà mất nghĩa, có gì phải kỳ chú vào trí nhớ. Cho nên Chân Nhân sống trong cảnh, làm mà không mắc trong cái làm. Đến khi, bắt buộc phải kêu cái nầy là phải, gọi cái kia là quấy, ép mình phải nhận những trạng thái tạm thời kia là thật, phân biệt trắng đen, đem mình nắn theo hoàn cảnh…thời mới có khổ sanh ra vậy.
 

~o~o~o~o~o~o~o~

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 10:05 am

 
 TRÍCH DỊCH MỘT ĐOẠN TRONG QUYỂN “INITIATIONS LAMAIQUES”
Đắc đến bực vô vi, rồi, chân nhân bây giờ mới biết ta có đây, chẳng phải Có để hành động (theo môt mục đích chi chi) mà Có là vì Có (không thể không vậy cho đặng)
Cắt nghĩa bao nhiêu cũng không rõ bằng lấy cái chỗ tương tự sau này mà nói, ta sẽ hiểu đặng cái ý tưởng của các bực chân nhân ấy.
Một vị Chân nhân nói với tôi rằng: “Thái dương có làm việc hay chăng?” Thái dương nào có nghĩ rằng: “Ta sẽ phóng xạ điền quang ta cho người nầy, cho nó ấm, cho đồng ruộng kia cho lúa nở, cho xứ nọ cho nhân dân đó hưởng đặng Yến sáng đâu?” Mà bởi vì nó là Thái dương, bản tánh nó là Nóng và Sáng, nên nó phải soi, nó phải truyền sự sống ấm áp cho cả loài vật”.
Nói về bực Tchangtchou Semspa, một nhân vật rất cao trọng, toàn trí, toàn đức, toàn nhân, cũng một thế. Bởi cái tự tánh của người rất mẫn nhụê, cái thần năng của người rất nhân
ái, nên tự nhiên phải phát lộ ra để bao bọc, soi sáng hết mọi vật, từ những bực Tiên Thánh ở
tột cõi trên, đến những hạng cùng dân khốn nạn bị đoạ lạc dưới cõi diêm phù…
Cái điều kiện tối yếu để lên tới bực cao siêu ấy, là phải tận diệt Bản ngã trong cả phương diện…Bởi thế mới có nói rằng: “Niết bàn tức là chỗ tuyệt diệt của ý muốn”(ý muốn đây là muốn nói về cái hành vi còn mong kết quả, cái hành vi còn chủ động tức là cái hành vi hữu ý trái nghịch với hành động vô vi. Bởi thế mới dịch là Ý Muốn, không dịch theo nghĩa thường là Tình dục đặng. Độc giả phải để ý rằng chữ hữu ý dụng trên đây không giống chữ hữu vi của phần nhiều hay dùng chút nào cả. Người ta thường đem chữ hữu vi để dụng vào một nghĩa rất thô. Không đúng với cái nghĩa muốn dùng ở đây.)
Con đường đi tới đây chưa phải là cùng. Nhưng mà bực naldiorpa, bấy giờ có thể lên tận trên chót vót những lẽ huyền bí siêu hình của cái Tâm. Kỷ luật, quy tắc, nghi lễ…không còn nghĩa lý gì đối với họ nữa. Chỉ còn có một sự Thiền định, mà họ thường sánh với một sự lưu linh thả rong rất phóng khoáng tự do trên những đảnh núi tuyệt vời, đượm nhuần một màu không khí rất êm đềm, mát mẻ và thanh trong…
Trên những cõi mênh mông cao địa của Tinh thần, mà ta vẫn thấy đặng có cái bóng rất thô trong những cảnh tịch mịch thanh phong của dãy Tuyết Sơn, bấy giờ cái lối đường mòn đã bặt dấu…Ta không còn thể theo hỏi, trông đặng các bực chân nhân đã hoàn toàn giải thoát, đã thấy đặng chỗ tự do tuyệt đích của cảnh Niết Bàn rồi…
Có khác nào cái dấu con chim bay giữa trời xanh mây bạc, con đường của họ bây giờ thật rất khó lòng mà tìm trông cho thấy vết bóng nữa.
 

~o~o~o~o~o~o~o~

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 EmptySat Mar 22, 2014 10:15 am

CHÂN NHÂN
Chân nhân, theo quan niệm Toàn chân, không phải là một bực phi thường, một bực siêu nhân. Chân nhân là người có sống đặng trong cái sống tự nhiên, trong cái sống của chân thể
mình vậy. Khác chân nhân, là những người chưa có sống. Bởi thế Toàn chân không phân
biệt nhiều người…giai cấp, cao thấp gì cả…chỉ thấy có Người mà thôi. Nhưng người có hai
lúc, lúc chưa sống và lúc sống, mà chân nhân là người có sống. Thế thì phần đông con người
chưa có ai sống cả hay sao? Và ta phải làm cách nào để phân biệt chân nhân với người? Tự
Động là có sống, Bị Động là chưa có sống.
Phần đông con người nói thương, nhưng có ai thương thật chăng? Ta thương người nầy, là bởi họ đồng ý với ta, hoặc bởi họ thương ta. Nếu họ không thương ta nữa, hoặc không đồng ý với ta nữa, liệu ta có còn thương họ được nữa chăng? Cái gì làm cho ta thoạt thương, thoạt ghét đó? Cái thương của ta là bị động, chớ không phải tự động mà có, ta có thể gọi nó là có thật chăng? Có thật đây, là có một cách tự bản tự căn. Một lẽ bất thường do nơi ngoại
cảnh biến đổi, còn được kêu là một lẽ thật chăng? Thế thì sao lại còn được gọi là thương?
Người chưa có thương chưa có ghét, thời chưa gọi là có sống. Vậy người chưa có sống, làm
sao biết có sướng khổ mà bàn mãi về sự sướng khổ? Chỉ có người có sống mới biết có sự sướng khổ, hay không mà thôi. Nhưng người có sống, lại không bao giờ thấy có sướng khổ, cho nên không nhận cho đời là có sướng khổ vậy, cái sướng do nơi khổ mà có đó. Nó chỉ có là đối với những ai chưa có sống, họ nhận lầm mà thôi.
Có kẻ sẽ nói rằng, nếu không có hoàn cảnh hiện ra trước mắt thì lấy gì có ý tưởng thương, ghét? Vậy gọi tự động thì không trúng, vì xưa nay có ai thương mà không có một  chủ quan một khách quan chăng? Nói thế đúng lắm, nhưng đúng với kẻ còn sống trong cái quan niệm tương quan, hiểu nghĩa chữ thương ấy theo sự thương ghét của lẽ thường, thương
là vì có chỗ vừa ý, tất nhiên chỗ không vừa ý nữa là ghét ngay. Cái thương ấy, sở dĩ có cái
ghét liền bên, bất thường như thế làm cho người phải vì cái thương mà khổ, là tại nó do nơi một chủ động nào để làm cốt cho sự thương ấy. Lẽ cố nhiên là cái cốt ấy không còn, thì sự thương ấy không thể tồn tại nữa đặng. Lấy một cái chủ động nào để làm cốt cho sự thương, Toàn chân gọi đó là Bị Động vậy. Hễ lấy một cái chủ động chi chi làm cốt cho tình cảm, thì đó tức là mong cho hành vi mình có kết quả. Mà hễ mong có kết quả thì đó là ta tạo ra cái khổ rồi vậy. Thế là nghĩa gì? Trong lúc ta làm, để mong một kết quả chi chi, thì ta không thể yên vui đặng, vì cái kết quả đó chưa tới. Đó đã dành. Nhưng đến khi đạt được mục đích ấy
rồi, thì lại sẽ lo sợ cho nó mất đi chăng, thế thì sự yên vui cũng là tạm thời chớ chưa phải là
chắc chắn, đừng nói chi không đạt được mục đích, cái khổ về sự thất vọng lại càng giết
người ta mau chóng nữa kia. Có phải đó là hành vi tạo Khổ chăng? Cái sự Thương của chân nhân rất khác xa…Cái thương ấy nó vô tâm mà bao trùm, phảng phất như mùi hương của hoa nở bay ra, không riêng gì cho ai,..ai biết thì biết, ai không biết cũng không bận gì đến
lòng đặng. Cho nên ta không thể hiểu chữ thương ấy theo cái nghĩa chữ thương theo phần
nhiều người ta đã hiểu xưa nay.
Chân nhân của Toàn chân quan niệm là thế, không gì là khó khăn, không gì là huyền bí
cả…(Xem Toàn Chân pháp luận chương Chân nhân và Xã hội)
 
~o~o~o~o~o~o~o~
 
Toàn chân không phải bảo ta chớ lo đời…Đã là một phần tử trong một toàn thể thì làm sao mỗi hành động ta lại không có ảnh hưởng ít nhiều đối với đời? Dầu ta có muốn tách riêng với đời cũng không thể đặng…Cách Toàn chân hiểu sự lo đời rất khác xưa nay con người phần nhiều đã hiểu. Xã hội hiện thời sở dĩ rối loạn là do nơi chúng ta lầm lạc về sự đem cá nhân chủ nghĩa xen vào chỗ không nên xen vào. Về mặt tư tưởng thì con người thích làm con chiên con rất dễ ăn dễ dạy. Về mặt mưu đồ vấn đề, vật chất, ăn mặc, thì con người trái lại, đem chủ nghĩa cá nhân vào đó mà thi hành. Ta phải hiệp đoàn để làm việc, trái lại ta phải đứng riêng một mình để tầm chân lý. Nếu ta biết đem quan niệm nầy mà thực hành trong những hành động ta hằng ngày, thì mới trông dứt đặng cái nguồn lợi dụng, tức là sự ích kỷ và tham lam. Bấy giờ ta mới mong diệt đặng những nỗi mây mù, làm cho ta lạc lầm không phân biệt đặng sự TỰ TU TỰ NGỘ trong đường tư tưởng và sự HIỆP ĐOÀN trong con đường hành động.
Bởi con người hiểu lầm, không phân biệt hai lẽ nói trên đây, mà bên tư tưởng giới…con người cam chịu làm con nộm, mặc tình ai sai sử thế nào cũng đặng, cam chịu làm một đoàn chiên con rất dễ dạy, rất phục tùng…các bực tự xưng là hướng đạo, tự xưng là giữ độc quyền chân lý. Trái lại, về phần mưu đồ sự yên ổn vật chất, về những vấn đề ăn mặc…thì con người lại đem cái chủ nghĩa cá nhân ra mà thờ, khiến cho con người về phương diện nầy lại hoá ra như sói, như hùm,...chỉ cứ lo thâu trữ riêng cho mình, không quan thiết gì đến ai cả. Thế nên về mặt tư tưởng, ta thấy biến sanh ra biết bao nhiêu TÔN GIÁO TỔ CHỨC rất có trật tự, rất có quy tắc, trong đấy tạo ra một hạng người mẫu, rất buồn chán…còn về mặt vật chất thì lại sanh biết bao nhiêu cá nhân rất khác biệt nhau, không một ai cũng chịu hưởng chung quyền lợi với nhau, tạo ra biết bao nhiêu đều thống khổ về sự tham lam lợi dụng tàn bạo…Sự hiểu biết của Toàn chân (Toàn Chân, là Bảo Toàn Thiên Chân hay là Chân thể. Các độc giả chớ lầm lộn nó với cái nghĩa của các đạo sĩ xưa đã lạm dụng…như họ đã lạm dụng chữ Đạo, Đức của Lão Tử vậy. Nghĩ rằng chữ dùng bên Đạo, thường bị người sau không hiểu đến cái nghĩa chánh của nó, hoặc lấy theo ý riêng mà hiểu nên chỉ càng lâu đời chừng nào, nó lại càng biến thiên cái nguyên ý của nó chừng ấy. Bất đắc dĩ mới mượn chữ ấy để miêu tả ý riêng của mình, vậy muốn khỏi sự hiểu lầm cho độc giả, mỗi chữ tác giả đều có giải thích cả. Độc giả nên hiểu chữ ấy theo định nghĩa của tác giả. Dầu cái chánh nghĩa của nó không thật phải như thế, độc giả cũng nên biết cho sự hiểu của tác giả chỉ ở trong chỗ định nghĩa ấy…mà thôi. Xin các độc giả biết cho.) về sự lo đời có chỗ phân biệt như thế…Bởi vậy, Toàn chân rất cực lực phản đối kẻ mong nhồi sọ con người về đường tư tưởng, đem những lý thuyết tự mình đã gọi là hay, là phải mà ép buộc, rủ quên kẻ khác phải nghe theo, làm cho mai một cái sống tự nhiên của tinh thần con người đi…
Toàn chân sở dĩ nói, chớ lo đời, là bảo chớ vội vàng đem nhân loạ bỏ vào cái khuôn tư tưởng sẵn của một cá nhân nào, (xem chương Tế Độ Quần Sinh). Một cái Xã hội Tổ chức về vấn đề nhu cầu vật chất, với một cái Xã hội Tổ chức về Tư tưởng…rất khác nhau xa, học gỉa nên biệt phân hai lẽ ấy…không vậy thì thật khó lòng mà hiểu đặng cái nguyên ý của tác giả.
Tuy nhiên, con người có quyền tự do của cá nhân, đem tư tưởng mình ra trình bày với đời, song phải biết cho đó là để giúp làm tài liệu cho người, ai thuận thì nghe, ai không thuận thì thôi, chớ ta không quyền bảo tư tưởng của ta là đúng, một cách tuyệt đối, nghĩa là phải chung cho cả loài người, và mong đem nó nhồi sọ công chúng, tự lập ra một tôn giáo để đàn áp tư tưởng kẻ khác..( Xem quyển TOÀN CHÂN PHÁP LUẬN đang in).

SÁCH ĐÃ IN
TRƯỜNG LẠC CA (N.V.T)
SÁCH ĐANG IN
TOÀN CHÂN PHÁP LUẬN (N.d.C)
SÁCH SẼ IN
CHUNG QUANH QUYỂN TOÀN CHÂN
PHÁP VĂN TOÁT YẾU (N.V.T)
TRANG TỬ (N.V.T)
THỂ TƯỚNG LUẬN (N.d.C)
MÓN ĂN NÊN THUỐC (Thực trị bản thảo) – Lê văn Tịnh
SÁCH ĐANG SOẠN
Chẩn đoán bệnh học (N.d.C)
I. Diện
II. Thủ
III. Nhãn
Y Học tự nhiên (N.d.C) 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Toàn Chân Triết Luận   Toàn Chân Triết Luận - Page 2 Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Toàn Chân Triết Luận
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2
 Similar topics
-
» Đạo Giáo Giáo Phái
» Luận bàn về kiếp luân hồi
» TỨ DIỆU ĐẾ: Toàn bộ lời giải cho bài toán khổ của thế gian.
» Triết Lý Trang Tử
» Triệt sản nam tạm thời

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Các Đạo Khác :: Gương Xưa Tích Cũ-
Chuyển đến