Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ

Go down 
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  EmptyThu Jul 08, 2021 8:52 pm

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ 




 TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  3-han-phi
Không phải ngẫu nhiên Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử. Nói như vậy không có nghĩa bao trùm toàn khu vực mà chỉ có một số nơi, và ở một số thời điểm đã để lại những phát kiến có ý nghĩa to lớn đối với đời sống con người. Về tư tưởng, Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc đã hội tụ những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Thật ra, từ rất sớm người Trung Quốc đã đưa ra những quan điểm để giải thích thế giới, song đến thời Xuân Thu những nhà tư tưởng lại quan tâm hơn đến vấn đề nhân sinh. Bởi chưa khi nào, và sẽ không đâu có bước lịch sử như ở Trung Quốc lúc đó: đất đai rộng, chia thành nhiều nước nhỏ, dân đông mà loạn lạc liên miên trong mấy thế kỷ; càng loạn dân càng khổ thì giới trí thức ưu thời mẫn thế càng đông, mà bậc quân tử nào chẳng ôm trí bình thiên hạ. Trong thời đại “Bách gia chư tử” ấy, có những khuynh hướng mà tư tưởng nhiều khi đối lập nhau, quan trọng nhất phải kể đến là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia.
Nói chung các nhà tư tưởng có xu hướng coi triết thuyết họ sáng lập hay kế thừa đều sống hết mình với nó. Từ góc độ lịch sử khách quan mà nói trong những dòng tư tưởng kể trên không có dòng nào được coi là hoàn toàn, mà tùy vào thời điểm, từng hoàn cảnh để xét đến tính hợp thời của nó. Trong mấy ngàn năm qua không ai không biết Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc, song trên thực tế triết thuyết của phái này nhiều khi quá cao xa, vì chỉ thời Nghiêu - Thuấn mới có được; và nữa chính những đại biểu trụ cột, cốt lõi của phái này đương thời không thành công trong hoạt động chính trị mà họ theo đuổi. Nhưng những đại biểu của Pháp gia thì khác, bản thân họ tuy phải trả giá, song tư tưởng của họ đã giải quyết được vấn đề đương thời giúp nước Tần hùng mạnh, và đã thống nhất được Trung Quốc. 
Tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. 
Người mở đường cho phái Pháp gia là Quản Trọng. Ông là tướng quốc cho vua Tề Hoàn Công, nước Tề. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao gồm 86 thiên (còn lại), với những điểm chủ yếu: 1- Lời bàn luận không cao xa mà dễ thi hành; 2- Mục đích trị quốc là làm cho quốc phú, binh cường. Ông chú trọng đến sự phú quốc vì "Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục". 3- Để cho quốc phú, binh cường ông có chủ trương “ngụ binh ư nông” tức việc binh vào nghề nông. 4- Chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. 5-Trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm... trong phép trị nước… 
Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại, là người gốc ở đất Kinh, nước Trịnh. Chuyên học về hình danh, ông được vua nước Hàn dùng làm tướng quốc. Ông đưa ra chủ trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước. Ông cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình... bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua.
Khác hẳn các đại biểu của Pháp gia, Thận Đáo thuần túy là một tư tưởng gia. Ông người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế". Ông cho rằng: "Người hiền mà chịu khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà phục được người hiền vì quyền trọng vị cao. Nghiêu hồi còn làm dân thường thì không trị được ba người mà Kiệt khi làm thiên tử có thể làm loạn cả thiên hạ, do đó biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ cậy được mà bậc hiền, trí không đủ cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền". 
Một đại biểu khác của Pháp gia, là Thương Ưởng. Ông người nước Vệ, sau sang Tần và giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao "Pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Chủ trương của ông là pháp luật phải nghiêm, ban bố khắp trong nước cho ai cũng biết, và từ trên xuống dưới ai cũng phải thi hành, không phân biệt giai cấp; Pháp đã định rồi thì không ai được bàn ra bàn vào, không được “dùng lời khéo mà làm hại pháp”. Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có công, phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất... nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và sau này lần lượt thôn tính các nước khác, thống nhất Trung Quốc.
Người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng trị nước của pháp gia đã kể trên là Hàn Phi. Ông người nước Hàn, chủ trương đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo đức" của Nho, "Kiêm ái" của Mặc, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước, mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Vì thế, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. 
Trước hết nói về "Thế", là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương: 1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua; 2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung. Điều này gần với tư tưởng Trung quân của Nho gia, Hàn Phi chê việc vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn là trái đạo quân thần, ý này trái hẳn chủ trương của Khổng; 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia, trong đó dựa theo nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất; Thưởng thì phải trọng hậu, phạt thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô tư; Vua phải nắm hết quyền thưởng phạt.
"Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy... Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp". "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”. 
Sau “Thế”, trong tư tưởng của Pháp gia phải kể đến yếu tố thứ hai là "Pháp". "Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia, là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa phải làm cho dân theo đúng pháp luật, như vậy là nước trị. Công việc trị nước của vua phải thông qua bộ máy cai trị, là quan lại.
Hàn Phi cho rằng cái lợi của vua và bề tôi khác nhau, mà bản tính con người nói chung là tư lợi nên bọn thần đều mang ít nhiều lòng phản nghịch. Như vậy vua trực tiếp trị quan lại chứ không trị dân. Để trị được tầng lớp quan lại, đa phần là những kẻ hơn người hoặc tài năng hoặc sứ mạnh hoặc thế lực… bắt buộc bậc minh chủ phải có thuật. Tư tưởng của Pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị. "Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn... trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi, “Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra. 
Về Tâm thuật thi rất nhiều và thiên biến vạn hóa, thường không theo quy tắc nào ngoài quy tắc gạt bỏ người sao cho có kết quả. Chẳng hạn như: Làm bộ như ra lệnh và ra lệnh giả; Giấu điều mình biết rồi mà hỏi để biết thêm những điều khác; Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được… 
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và dùng người. Ông kể ra những hạng gian thần và có thể làm loạn là: kẻ thân thích của vua và quần thần. Đó là hai hạng đều đánh vào tình cảm thị dục, nhược điểm của vua để lung lạc, che giấu vua. Để ngăn cấm bọn đó, Pháp gia chủ trương, vua phải: Không để lộ sự yêu thích, giận ghét của mình; Không cho họ biết mưu tính của mình; Nếu không phải việc riêng thì không để họ tự ý hành động, việc gì cũng phải hỏi mình trước; Bắt họ phải theo đúng luật mà chính vua cũng phải theo đúng pháp luật trong việc thưởng phạt họ; Xem hành động của họ có hợp với lời nói của họ không… Tìm kẻ gian thì khi một việc xảy ra, hại cho nước hoặc cho người khác thì xét xem ai là kẻ có lợi. Muốn kiềm chế hạng người có địa vị cao, trách nhiệm lớn thì: 1- Nếu là người hiền thì có thể bắt người thân yêu của họ làm con tin; 2- Nếu là kẻ tham lam thì cho họ tước lộc thật hậu để an định họ; 3- Nếu là kẻ gian thì phải làm cho họ khốn khổ bằng cách trừng phạt. Nếu dùng những cách đó mà vẫn không cảm hóa được họ thì phải trừ họ, bằng cách mượn tay kẻ thù của họ hoặc đầu độc để mình không bị thương tổn danh tiếng. Nhưng cách tốt nhất là không dùng những không nên dùng để khỏi phải đề phòng họ. Hàn Phi cho biết một số hạng người không nên dùng: Hạng người coi khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ mà đi nơi khác; Hạng đặt lời giả dối trái pháp luật; Hạng người lánh đời, ở ẩn, chê bai vua; Hạng vì tư lời mà làm thân các chư hầu; Hạng vì người thân quen mà làm việc riêng tư… Tuy nhiên Hàn Phi cũng cho rằng có kẻ rất tài giỏi lại là gian thần, nếu vua có thuật để khống chế họ thì vẫn có thể dùng.
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Quy tắc cơ bản của thuật dùng người theo Pháp gia là thuyết Hình danh. Thuyết này là Pháp gia kế thừa từ Khổng Tử, và Phái Danh gia. Nhưng Hàn Phi có óc thực tế, không bàn về tri thức luận mà đem học thuyết của Nho gia vào chính trị, ông chỉ thu hẹp vào việc dùng người, gạt bỏ những vấn đề về đạo đức, luân lí. Ông không nói đến "Chính danh", mà chỉ nói đến "Hình danh", hay là "Thực danh". Danh và hình hay thực phải hợp nhau. Ví như một người hứa đến thăm ta, lời hứa đó là "Danh" và hành động tới thăm là "Hình" hay "Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ danh và hình hợp nhau, nếu không thì chỉ có danh mà không có hình hay không có thực. Nếu pháp luật là danh thì sự việc là hình, sự việc hợp pháp luật thì danh và thực hợp nhau. Nếu quan vị là danh thì chức vụ là hình, chức vụ không hợp với quan vị thì danh và hình không hợp nhau. Hàn Phi cho quy tắc hình và danh hợp nhau là quan trọng nhất trong việc trị quan lại, nếu không theo thì sao có thể phân biệt được kẻ hay người dở, người giỏi kẻ gian, khó thưởng phạt đúng được, như vậy nước khó mà trị được. 
Muốn dùng quy tắc hình danh hợp nhau để thu phục bề tôi thì vua phải tự mình kiểm xét xem có chính đáng không, vì nếu chỉ nghe lời giới thiệu thì có thể người giới thiệu hoặc vì tư lợi hoặc vì tình riêng hoặc vì bè phái mà đề cử kẻ bất tài hay gian thần. Để không bị lừa gạt thì phải thận trọng, tham bác ý kiến nhiều người, rồi đích thân xét tài đức, sau đến mới giao việc. Hàn Phi không chỉ đưa ra cách xét người, mà còn chỉ ra phương pháp “Thỉnh ngôn”, “Tham nghiệm”, và “Thí chi giao chức”. Thính ngôn tức phương pháp nghe, là: Khi bề tôi nói thì vua phải trầm mặc, lầm lì không khen không chê, không để lộ ý nghĩ và tình cảm của mình; Phải bắt bề tôi nói, không được làm thinh, mà nói thì phải có đầu có đuôi có bằng cớ; Lời nói của bề tôi không được trước mâu thuẫn với sau; Bề tôi phải đưa ra ý kiến rõ rệt, không được mập mờ, ba phải để trốn tránh trách nhiệm; Quan trọng nhất lời nói phải thiết thực, có công dụng, không phải là hư ngôn. Tham nghiệm là khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi và để xem lời nói của họ có giá trị không. Hàn phi cho rằng muốn biết lời nói của họ có thành thực không thì phải kiểm tra việc đã qua để biết lời nói có đúng không; để bề tôi ở gần mình để biết nội tình của họ; dùng những điều mình biết rồi để tra hỏi những điều chưa biết; nói những điều trái ngược để biết ý tứ kẻ dưới… Giao chức tức cho họ làm việc rồi mới biết thực hay hay dở. Khi giao chức phải nhớ quy tắc: Mới đầu giao một việc nhỏ rồi tăng dần; Không cho kiêm nhiệm; Đã giao trách nhiệm cho một người thì đừng dùng kẻ khác để nhòm ngó kẻ đó. 
Thuật dùng người, quy tắc là như vậy nhưng đó chỉ để cho những vua tầm thường theo, còn bậc minh chủ có pháp luật thì tự có cách riêng.
Ngoài các yếu tố "Pháp", "Thế", "Thuật", tư tưởng Pháp gia còn coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ. Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt. 

Tư tưởng chính trị của Pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
Pháp gia coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo. Là một bước tiến lớn, trong tư tưởng chính trị cổ đại
Trung Quốc. Mục đích chính của quyền lực là để giúp cho nhà lãnh đạo có đủ phương tiện, mưu cầu quốc gia phú cường, bằng chính sách "Canh chiến" do Hàn Phi đề xướng. Được như vậy thì vào thời bình, nhân dân sẽ nỗ lực canh tác, làm cho nước giàu, nhờ có pháp lệnh khuyến khích; một khi xây ra chiến tranh, thì khối nông dân đã được tổ chức sẵn trong thời bình, đều trở thành lính chiến, có thể đưa ngay ra chiến trường chống giặc, như Hàn Phi đã nói: vô sự tắc quốc phú, hữu sự tắc binh cường". 
Mấy ngàn năm đã qua, chúng ta có thể chắc chắn một điều là không có gì hoàn toàn cả. Tư tưởng Pháp gia cũng vậy, nó có những điểm tiêu cực, thậm chí là phản động nhưng nó cũng có những điểm rất tiến bộ, mà ngay cả ngày nay cũng là lý tưởng.


_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  EmptyFri Jul 09, 2021 10:04 am

PHÁP TRỊ


 
LÊ GIANG
Mở đầu
Lịch sử xã hội phương Đông cho thấy: ít triều đại nào có thể thịnh trị lâu dài nếu không biết kết hợp hài hòa Đức trị và Pháp trị, nhưng xét về mặt tư tuởng, nguời ta thường thấy có sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng trị quốc này. Ở Trung Quốc, trong thời kỳ phong kiến, Nho gia với Đức trị thường được coi là “chính đạo trị quốc” (từ đời Đuờng, Tống trở đi) còn chủ trương Pháp trị của Pháp gia thường bị coi là “phản đạo”. Tuy nhiên, sau thời thịnh nhất của tư tuởng Pháp gia (nhà Tần), mặc dù luôn bị che giấu dưới bề ngoài Nho giáo, trên thực tế, Pháp trị của Pháp gia vẫn là lý thuyết của nền quân chủ Trung Hoa, được các triều đại sau ít nhiều sử dụng. Ở Việt Nam, mặc dù Nho giáo phát triển cực thịnh dưới thời Lê sơ, tuy nhiên đường lối trị nước được các vua Lê Thái Tông và Thánh Tông lựa chọn lại là Pháp trị. Đặc biệt, duới thời Lê Thánh Tông, với việc theo đuổi đường lối Pháp trị trong trị quốc (trọng pháp) và phát huy Nho học đến đỉnh cao (tôn nho), Nhà nước phong kiến Đại Việt vào nửa sau thế kỷ XV trở thành một Nhà nước hùng mạnh. Trong thời kỳ chống Pháp, Đức trị lại đặc biệt thành công. Sự thành công của Đức trị thời kỳ này do một số lý do sau:
Thứ nhất: Có một nhân cách lớn, một tấm gương đạo đức chói sáng đã chinh phục được con tim và khối óc của nhân dân cả nước là Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thứ hai: Sự cùng khổ, sự đoàn kết đồng lòng của nhân dân hướng đến một mục tiêu duy nhất là độc lập dân tộc.
Trong một thời gian dài sau kháng chiến chống Pháp, chúng ta có khuynh hướng tiếp tục sử dụng Đức trị trong trị nước. Đảng và nhà nước chủ yếu dùng quy phạm xã hội để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Luật pháp ít và không hiện diện trong đời sống xã hội. Đường lối này đã khiến cho việc quản lý xã hội trở nên kém hiệu quả. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, nguời viết cho rằng Pháp trị phải được đề cao trong quản lý xã hội (nhưng không phủ nhận Đức trị) vì một số lý do sau:
Thứ nhất: chúng ta đã không còn và không thể có một lãnh đạo đất nước như chủ tịch Hồ Chí Minh - có lẽ là người cuối cùng được đào tạo cơ bản để có được những đức tính trong sáng và cao đẹp của người trị nước theo đúng Nho giáo.
Thứ hai: sau khi thực hiện đường lối Đổi mới, xã hội Việt Nam đã thực sự phân hóa về giai tầng, về quyền lợi. Dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, các giá trị về đạo đức gia đình, xã hội phần nào bị bóp méo, lệch chuẩn và không thể điều chỉnh lại nếu chỉ sử dụng Đức trị. Vì thế, bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục, Pháp trị là giải pháp quan trọng để xây dựng và củng cố chuẩn mực đạo đức xã hội trong bối cảnh mới.
Thứ ba: trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi Việt Nam tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới WTO, hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào kinh tế quốc tế, pháp luật Việt Nam phải được điều chỉnh, hoàn thiện nhằm đảm bảo cho các hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam và các nước khác và phù hợp với các chuẩn mực, thực tiễn quan hệ quốc tế.
Thứ tư: Để thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể không theo đuổi tư tuởng Pháp trị phù hợp với bối cảnh kinh tế-chính trị-xã hội Việt Nam hiện nay.
Thứ năm: Với những thói hư tật xấu của nguời Việt, như “tính linh hoạt” nhiều khi trở thành tùy tiện; “tâm lý đám đông”; thói quen “phép vua thua lệ làng”, lối ứng xử “trọng tình hơn lý”; “máu liều”; “tính nửa vời”; “tính du di”…. thì không thể chỉ dùng Đức trị mà cần cả Pháp trị, chúng ta mới có thể xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, với những nguyên nhân trên, chỉ khi xây dựng được một nền pháp trị cứng rắn bất vị thân, thượng tôn luật pháp và kết hợp với sự hỗ trợ của Đức trị (giáo dục đạo đức, tuyên truyền pháp luật), chúng ta mới có khả năng giải quyết đúng đắn các mối quan hệ xã hội phức tạp hiện nay.
Trên cơ sở đó, về mặt tư tuởng và lý luận, để phục vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam, bên cạnh việc tìm hiểu tư tuởng Pháp quyền của Châu Âu (Etat de droit), tư tuởng pháp trị của Anh-Mỹ (Rule of law), người viết cho rằng cũng cần đi sâu tìm hiểu và khai thác các giá trị của của đường lối Pháp trị của Pháp gia. Khác với các khái niệm của Châu Âu, của Mỹ-Anh, tư tuởng Pháp trị của Hàn Phi là dùng pháp luật để cai trị. Mặc dù đường lối Pháp trị này còn nhiều hạn chế, nhưng nguời viết cho rằng tư tưởng của nó vẫn có giá trị và từ những hạn chế của nó, có thể rút ra được nhiều bài học có ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam.      
 
1. Pháp gia, Hàn Phi và đường lối Pháp trị
1.1 Pháp gia và Hàn Phi
Trước khi được Hàn Phi tổng hợp, hệ thống và phát triển (như một sự xác lập thành một trong những trường phái tư tưởng lớn nhất ở Trung Quốc: Nho, Mặc, Lão, Pháp) qua tác phẩm Hàn Phi Tử, học thuyết Pháp gia đã hình thành và phát triển qua ba giai đoạn: Thời kỳ Xuân thu; tiền thời kỳ Chiến Quốc; giữa và cuối thời kỳ Chiến quốc
- Thời kỳ Xuân thu là thời kỳ khởi nguồn của tư tuởng Pháp gia. Một số nhà chính trị (Quản Trọng, Án Anh) đã áp dụng thủ đoạn trị quốc cứu loạn mà nguời đời sau gọi là “pháp trị”. Sự thành công của họ nhờ thực hiện pháp trị cùng những lời bàn có liên quan đến pháp trị có tác dụng khởi phát lớn đến Pháp gia thời sau. Học thuyết thực sự có ý nghĩa “pháp luật” của Pháp gia chỉ xuất hiện vào cuối thời Xuân Thu, khi Tử Sản nắm quyền ở nước Trịnh, lần đầu tiên sử dụng các sách ghi chép về hình phạt cho kẻ vi phạm chế độ tư hữu tài sản.
- Thời kỳ đầu thời Chiến quốc với tư tuởng pháp trị và chính sách hưng nông cường quốc của Lý Khôi và tư tuởng pháp trị của Ngô Khởi. Lý Khôi, tuớng của Ngụy Văn Hầu, đã tham khảo luật pháp các nước đương thời, soạn thành bộ “Pháp Kinh” gồm 6 thiên: Đạo pháp, Tặc pháp, Tù pháp, Bổ pháp, Tạp pháp và Cụ pháp với nội dung nhằm bảo vệ lợi ích tư hữu cho giai cấp địa chủ. Ông được xem là nguời đầu tiên biên soạn sách luật pháp của Pháp gia. Sau này, các bộ “Tần luật” đời Tần; “Cửu chương luật” đời Hán, “Pháp kinh” đời Thanh đều chịu ảnh hưởng từ bộ Pháp Kinh của Lý Khôi. Ông cũng là nhà chính trị Pháp gia đầu tiên dùng chính sách hưng nông cường quốc, khai thác tối đa tiềm lực đất đai của quốc gia. Ngoài ra, theo Thiên nội trừ thuyết thượng trong Hàn Phi Tử, Lý Khôi cũng dùng thủ đoạn pháp trị khiến người dân khổ luyện bắn tên[1], nhờ đó mà đánh bại quân Tần. Còn Ngô Khởi là người nước Vệ, vì thực hiện pháp trị, trước hết lấy vợ làm thực nghiệm; ngoài ra còn “hút máu độc cho binh sĩ”; “dùng trọng thưởng” làm quân sĩ hăng hái chiến đấu….
- Thời kỳ giữa và cuối thời Chiến quốc: Ba nhà Pháp gia có ảnh hưởng lớn nhất và trực tiếp nhất đối với tư tuởng Pháp trị của Hàn Phi gồm: Thương Ưởng, Thân Bất Hại và Thận Đáo.
+ Thương Ưởng, tể tướng nước Tần, dưới sự ủng hộ của Tần Hiếu Công, hai lần thực hiện biến pháp. Trong lần thứ nhất, (356 trước Công nguyên), Thương Uởng thực hiện “Tội nhẹ phạt nặng” với mục đích “dùng hình phạt để xóa bỏ hình phạt”. Ngoài ra, Thương Ưởng còn cho dựng cột gỗ cao ba trượng và bố cáo “ai di chuyển được cột gỗ đến cửa Bắc thưởng 10 lạng vàng”. Sau đó, ông cố ý nâng mức thưởng lên 50 lượng vàng. Có nguời thực hiện, ông thưởng 50 lượng cho nguời ấy. Như vậy, một mặt ông lấy được lòng tin của dân chúng, mặt khác bầy tỏ quyết tâm chấp pháp của mình. Để chứng tỏ pháp luật nghiêm minh, khi thái tử phạm pháp, Thương Ưởng xử tội hai thầy dạy thái tử là Công Tôn Giả và công tử Kiền. Ông cho rằng biện pháp trị quốc hữu hiệu nhất là thực thi pháp trị “vua tôi bỏ pháp theo tư ắt loạn; lập pháp rõ ràng, không lấy tư hại pháp thì trị” và chính sách canh chiến. Về quyền thế, Thương Ưởng Vua không được chia sẻ quyền lực với bất kỳ ai. Kết quả qua hai lần biến pháp, nước Tần trở nên giàu mạnh. Chu thiên tử cũng phải dâng thịt tế cho Tần Hiếu Công, thừa nhận Tần Hiếu Công là bá chủ thiên hạ. Các chư hầu cũng đến chiều cống cho Hiếu Công.
+ Thân Bất Hại vốn là tiện thần của nước Trịnh. Sau khi học xong pháp thuật Hình danh, Thân Bất Hại sang Hàn, được vua Hàn Chiêu Hầu phong làm thừa tướng. Ông thực hiện cải cách trong nước, chấp chính mười lăm năm, giúp cho nước Hàn cường thịnh, không bị nước nào xâm chiếm. Về tư tuởng Pháp gia, Thân Bất Hại lấy pháp thuật Hình danh làm chính. Ông viết “ Vua nhất định phải đưa ra pháp lệnh rõ ràng ủng hộ chính nghĩa, giống như nắm vững cán cân và quả cân để cân nhắc khinh trọng, dùng một loại tiêu chuẩn để đối đãi với quần thần”. Tác phẩm “Thân Tử” của ông luận về đạo làm vua, cho rằng quan hệ vua tôi giống như quan hệ giữa nhà giàu và kẻ trộm-bề tôi luôn muốn trộm lấy quốc gia của vua. Vì thế, vua phải dùng các thủ đoạn quyền thuật để dò xét hành vi của bề tôi, đồng thời biết che giấu tư tưởng của mình. Nói chung, là nhà chính trị Pháp gia chuyên dùng thuật, mưu mẹo, thủ đoạn để trị dân.
+ Thận Đáo là nguời nước Triệu. Tác phẩm ông để lại có bộ “Thận Tử”, gồm 42 thiên. Thuật vua trị quốc của Thận Đáo cũng lấy học thuyết đạo Hoàng Lão (một phái của Đạo giáo) làm nền tảng cho lý luận pháp gia. Ông rất coi trọng cái thế của nhà cầm quyền- quyền thế, địa vị. Ông cho rằng nếu có thế mạnh, thì nguời hiền phải phục; không có thế mạnh thì có là Nghiêu Thuấn cũng chẳng phục được ai: “hiền năng tài trí không đủ để chế phục dân chúng, còn quyền thế địa vị hoàn toàn có thể khiến nguời hiền năng khuất phục” (Thiên nạn thế-Hàn Phi Tử)
Nhưng đại diện tiêu biểu nhất của Pháp gia, nguời thực sự đưa Pháp trị trở thành một học thuyết chính trị-triết học và trở thành một trong bốn trường phái lớn nhất của tư tuởng Trung Quốc (Nho, Mặc, Lão, Pháp) là Hàn Phi. Đối với tư tưởng Pháp gia của Thương Ưởng, Thân Bất Hại và Thận Đáo, Hàn Phi đều có khẳng định, có phủ định, chọn lấy cái hay, bỏ đi cái dở, hệ thống chúng, phát triển chúng, xây dựng lập luận chặt chẽ, từ đó hình thành nên lý luận Pháp trị của Pháp gia một cách hoàn thiện nhất gồm Pháp, Thuật và Thế. Trong đó, tư tuởng Pháp trị chủ yếu lấy từ Thương Ưởng; tư tuởng thuật trị lấy từ Thân Bất Hại và tư tuởng Thế trị lấy từ Thận Đáo.
+ Hàn phi (295 - 233) là nhà tư tuởng có cống hiến rất lớn đối với lý luận chính trị cổ đại Trung Quốc. Ông cũng là đại diện tiêu biểu nhất của Pháp gia. Ông sống vào thời hậu Chiến quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Quốc. Ông vốn xuất thân từ quý tộc nước Hàn. Tuy có theo Tuân Tử học đạo Nho nhưng có tư tuởng khác biệt với thầy. Ông kế thừa của Tuân Tử quan niệm bản tính con nguời là ác (nhưng triệt để hơn thầy), căm ghét mê tín, coi trọng giáo dục, đề cao các tiên vương đời Hạ, Thương, Chu, xem nhẹ Nghiêu, Thuấn (vốn là mẫu mực của Khổng Tử). Về trị nước, do quan niệm bản tính con nguời là “đại ác”, ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không coi trọng Lễ như Tuân Tử mà chủ trương dùng Pháp, Thế, Thuật của Pháp gia. Ngoài ra, Hàn Phi cũng chịu ảnh hưởng của Mạnh Tử về chủ trương “thượng đồng”- buộc dân chúng phải có cùng quan niệm tốt xấu với nguời trên, không được có bụng khác với chính sách của triều đình. Trước hoàn cảnh nước Hàn bấy giờ, ông nhiều lần dâng sớ, mong được cải cách chính trị nhưng không thành. Ông quyết định tập hợp, xem xét các tình huống được mất của vua chúa các triều đại trước, biên soạn được các thiên “Cô phẫn”, “Ngũ đố”, “Thuyết nan”… nhằm làm vua Hàn tỉnh ngộ, thực hiện biến pháp, thi hành pháp trị, giúp nước Hàn giàu mạnh.
Trong khi Hàn Phi vất vả thuyết phục vua Hàn theo pháp trị không thành thì ở Tần, Lý Tư, bạn cùng theo học Tuân Tử với ông, đang vận dụng pháp trị để xử lý chính sự. Khi Tần Thủy Hoàng đọc được sách của Hàn Phi, bảo “Nếu ta gặp được người này và giao du với ông ta thì chết cũng không hận”. Nhưng khi biết Hàn Phi là nguời viết cuốn sách đó, lại là công tử nước Hàn, Tần Thủy Hoàng lập tức cho đánh Hàn. Đó là bởi Tần Thủy Hoàng đã nhận thấy cái đáng sợ trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi đồng thời lo ngại một khi tư tuởng ấy được thực thi, nước Hàn sẽ trở thành cường địch với Tần. Khi Hàn bị tấn công, trong tình thế tuyệt vọng, Hàn Phi được cử đi sứ sang Tần. Ông dâng vua Tần bài “Bảo tồn nước Hàn” để thuyết phục Tần vương đừng đánh Hàn. Vì bài này, Ông bị tống vào ngục. Biết tình thế nước Hàn không thể cứu vãn, Hàn Phi dâng tiếp bài “Lần đầu yết kiến vua Tần”, với mong muốn “nói cách phá kế hoạch hợp tung của thiên hạ, lấy nước Triệu, diệt nước Hàn, bắt các nước Kinh, Ngụy phải làm bầy tôi, thân với nước Tề, nước Yên để làm cái danh bá vương, cái đạo khiến chư hầu bốn bên chầu mình”. Tần Thủy Hoàng xem xong, muốn dùng Hàn Phi, ra lệnh thả ông. Nhưng Lý Tư, do ganh ghét tài năng của Hàn Phi, lại lo mất địa vị, mất quyền lực đang có ở nước Tần, đã ép ông uống thuốc độc tự tử trong ngục. Hàn Phi mất nhưng tư tưởng của ông đã được Tần Thủy Hoàng sử dụng để thống nhất Trung Quốc và quản lý nhà nước. Lúc đầu, chính sách pháp trị với luật lệ hà khắc tỏ ra hữu dụng nhưng duới tác động của nhiều yếu tố, càng về sau càng kém hiệu quả, trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc nổi dậy làm sụp đổ nhà Tần. Sau khi nhà Tần sụp đổ, tư tuởng pháp trị của Hàn Phi vẫn được các triều đại sau ít nhiều sử dụng trong việc trị quốc (tuy luôn phải nằm trong cái vỏ ngoài Nho giáo).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  EmptyFri Jul 09, 2021 6:23 pm

[size=32]1.2 Nội dung cơ bản trong đường lối Pháp trị của Pháp gia [/size]
[size=32]Hàn Phi Tử là tác phẩm quyết định của toàn bộ học thuyết Pháp gia. Tác phẩm chứa đựng toàn bộ tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi lúc đầu phổ biến rộng rãi ở Hàn, rồi sang Tần và sau đó được phổ biến rộng rãi khắp nơi suốt thời Chiến Quốc. Đến đời Tần, nó được chỉnh lý lại gọi là “Phi Tử”. Đến đời Tống đã bắt đầu có nguời gọi là “Hàn Phi Tử”. Trước Hàn Phi, như đã trình bầy ở trên, lý thuyết pháp gia đã xuất hiện với những đại diện như Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo… Quản Trọng, Thương Ưởng mới chỉ thấy được cái quan trọng của phép tắc. Thân Bất Hại coi trọng Thuật. Thận Đáo coi trọng Thế. Nhưng chỉ đến khi Hàn Phi tập hợp được ba yếu tố Pháp, Thuật, Thế, đặt chúng trong mối quan hệ tương tác, vận động không ngừng, đồng thời sử dụng một học thuyết Triết học (Đạo Lão) làm xuơng sống cho lý thuyêt Pháp trị thì Pháp trị mới thực sự trở thành một học thuyết đầy sức sống và thuyết phục. Vì thế, Hàn Phi là học giả lớn nhất của trường phái Pháp gia. Hàn Phi Tử là tác phẩm quyết định của học thuyết Pháp trị và chỉ cần đọc Hàn Phi Tử là có thể nắm được toàn bộ học thuyết này.[/size]
[size=32]Nội dung cơ bản của đường lối pháp trị [/size][size=32]là đề cao pháp luật với tư cách là công cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. “Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa”. Nội dung này tập trung thể hiện qua ba chủ điểm : Pháp,  Thuật và Thế. Hàn Phi, căn cứ tình hình thực tế lúc bấy giờ và trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của các Pháp gia thời kỳ trước đã lần đầu tiên nêu rõ mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, thống nhất giữa Pháp-Thuật-Thế. [/size][size=32]Muốn đẩy mạnh cải cách chính trị, thay đổi chế độ, phục vụ và bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp địa chủ mới thì phải tiến hành biến pháp, thực thi pháp trị. Muốn thực thi pháp trị thành công thì phải có Thế và giữ được Thế (Quyền lực chính trị). Nhưng chỉ có Pháp, có Thế mà không có Thuật thì cũng không thể đạt được mục đích. Nếu có Thuật, có Thế mà không có Pháp, thì các lệnh ban ra cũng không thể thi hành hiệu quả. Vì thế, Pháp-Thuật-Thế phải cùng tồn tại, vận hành hỗ trợ lẫn nhau thì mới có thể trị nước, an dân; binh cường, nước mạnh.[/size]
[size=32]- Pháp: Pháp luật của vua, thể hiện ý chí của vua, đuợc ban bố cho toàn dân biết, làm theo pháp lệnh và giám sát lẫn nhau. Pháp như tấm guơng sáng soi thấu gian tà, giúp vị vua tầm thường chế phục được kẻ gian tà. Lập pháp luật không phải để phòng bị Tăng Sâm, Sử Thu mà để cho những ông vua tầm thường có thể ngăn chặn Đạo Chích (Thiên Thủ Đạo-Hàn Phi Tử). Pháp luật khiến nguời hư trở nên tốt. Nay có đứa con hư hỏng… Lấy tình yêu của cha mẹ, lấy đức hạnh của những nguời trong làng, lấy cái khôn ngoan của ông thầy học, cả ba cái tốt đều thi hành, nhưng rốt cuộc nó vẫn không lay chuyển. Quan lại trong châu sai binh lính thi hành phép công tìm bắt kẻ gian. Lúc đó nó mới hoảng sợ, thay đổi tính nết, tính hạnh của mình… Dân chúng nếu được yêu thương thì sinh kiêu căng, nhưng nghe theo uy lực (Thiên Ngũ đố-Hàn Phi Tử). Trước Pháp luật, mọi nguời đều bình đẳng (trừ Vua). Pháp luật là thượng tôn trong nhà nước. Pháp luật phải minh bạch. “P[/size][size=32]háp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu[/size][size=32]”. Lập pháp phải thay đổi tùy thời kỳ, dựa vào tình hình thực tế. “Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn. Biết cai trị dân chúng nhưng lệnh cấm không thay đổi thì nước bị cắt theo. Cho nên bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi” (Thiên Tâm độ-Hàn Phi Tử). Nhưng pháp luật và chính sách phải ổn định, thường xuyên thay đổi sẽ hại cho dân.Nấu cá nhỏ mà quấy trộn nhiều sẽ làm hư nát cá. Trị nước lớn mà thay đổi pháp lệnh nhiều thì dân bị tổn hại. Do vậy, Vua nắm quyền thống trị tôn sùng sự ổn định, không tán thành việc thường xuyên thay đổi pháp lệnh (Thiên Giải Lão-Hàn Phi Tử). Đối với những kẻ hại Pháp, phải nghiêm trị. Nội dung chính yếu của Pháp là Thưởng và Phạt. Theo Hàn Phi, Thưởng và Phạt cần được nhấn mạnh vì:[/size]
[size=32]+ Thứ nhất, nguời ta có tâm lý ham thưởng sợ phạt nên áp dụng thưởng phạt là cách cai trị hữu hiệu nhất. Ham lợi ghét hại, mọi nguời đều thế. Thưởng nhiều và chắc chắn, thì nguời ta coi thường kẻ địch; phạt nặng và dứt khoát thì nguời ta không bỏ chạy... Ham lợi sợ tội, không ai không thế. Người chỉ huy mọi nguời mà không dùng cái phép khiến mọi nguời đều theo, lại nối theo cái đức hạnh mà trăm nguời không có một nguời làm được, nguời hành nhân vẫn chưa biết cái đạo dùng nguời vậy. (Thiên Nạn nhị - Hàn Phi Tử). Thưởng hậu thì cái mình muốn có sẽ được nhanh; phạt nặng cái mình muốn cấm sẽ cấm được chóng. [/size][size=32](Thiên Lục phản - Hàn Phi Tử)[/size][size=32].[/size]
[size=32]+ Thứ hai[/size][size=32],[/size][size=32] nếu vua để mắt nhìn, để tai nghe và dùng đầu óc suy nghĩ thì rất dễ bị thần thuộc a dua lừa bịp. Nhưng một khi đã áp dụng luật lệ thưởng phạt, thì sẽ tránh được tệ hại đó. Bởi vì thưởng phạt theo luật lệ là phán xét theo sự kiện khách quan, việc gì đáng thưởng, điều nào nên phạt, đều được định sẵn bằng luật lệ minh bạch, khỏi bị ảnh hưởng bởi tình cảm chủ quan. Nếu thưởng phạt nghiêm minh, dân chúng sẽ nỗ lực phấn đấu: Nếu dân chúng biết rằng thưởng phạt đều xuất phát từ hành vi của bản thân, thì sẽ nỗ lực cầu lấy lợi ích, mà không mong vào sự ban ơn của vua (Thiên Nạn tam - Hàn Phi Tử).[/size]
[size=32]+ Thứ ba[/size][size=32], th[/size][size=32]ưởng phạt là lợi khí sắc bén, để vua chúa kiểm soát thầm thuộc. Vua không được để bề tôi nắm lấy quyền thưởng phạt. Hổ sở dĩ chế ngự được chó là nhờ bộ nanh vuốt của nó. Nếu Hổ bỏ đi bộ nanh vuốt, để cho chó dùng, thì nguợc lại hổ sẽ bị chó chế phục. Bậc vua chúa nhờ vào đại quyền hình và đức để chế ngự bề tôi, nếu bỏ đi hai đại quyền đó và để cho bề tôi sử dụng, thì nguợc lại vua sẽ bị bề tôi chế ngự (Thiên Nhị bính - Hàn Phi Tử)[/size][size=32].[/size]
[size=32]Ngoài chủ trương “Thưởng hậu mà giữ chữ tín, phạt nghiêm mà kiên quyết chấp hành”, Hàn Phi còn cho rằng phạt nhẹ không phải đạo trị quốc. [/size][size=32]Tiếc cỏ tranh thì hại cho lúa, thương trộm cướp thì hại cho dân lành. Nay nhẹ hình phạt, thi hành khoan dung ân huệ, như thế là làm lợi cho bọn gian tà và làm hại đến nguời lương thiện vậy[/size] [size=32](Thiên Nạn nhị - Hàn Phi Tử). Hình phạt nhẹ như mô đất nhỏ mà làm cho nguời ta hay vấp. Dân ham cái lợi nên coi thường cái tội, cho nên việc gian không chấm dứt… Nay nếu dùng hình phạt nhẹ thì thế nào dân cũng coi thường…. Hình phạt nhẹ là cái mô đất của dân. Vì vậy, con đường dùng hình phạt nhẹ nếu không làm nước loạn thì cũng là chăng bẫy lừa dân. Cái đó mới thực sự là làm thương tổn đến dân. (Thiên Lục phản-Hàn Phi Tử). Việc thưởng phạt cũng không được tùy tiện. Nếu ban thưởng tùy tiện, nguời có công cũng lười làm việc; nếu tùy ý miễn xá hình phạt, kẻ gian trá sẽ dễ làm bậy (Thiên Chủ đạo - Hàn Phi Tử). Tăng nặng hình phạt, không tùy tiện ban thưởng, ấy là vua yêu quý dân, dân sẽ đua nhau tranh thưởng; tùy tiện ban thưởng, giảm nhẹ hình phạt, ấy là vua không yêu quý dân, dân sẽ không đua nhau tranh thưởng (Thiên Sức lệnh - Hàn Phi Tử).[/size]
[size=32]Đối với [/size][size=32]việc chấp pháp[/size][size=32], p[/size][size=32]hải ngăn cấm tư tâm, tư ý, tư nghĩa[/size][size=32]. Hàn Phi ca ngợi vua Thuấn giết chết quan lại lập công trước khi mệnh lệnh ban hành, tán dương vua Vũ trừ khử Phòng Phong vì đến muộn, chứng minh “thái quá” và “bất cập” đều trái với pháp quy. Tất cả nhằm một mục đích duy nhất để đảm bảo thực hiện Pháp trị thành công![/size]
[size=32]- Thuật: Theo Hàn Phi, vua muốn trị nước, thi hành Pháp trị thì không thể để mất Thế. Muốn không mất Thế, vua cần phải biết Thuật. Thuật tức là thuật dùng nguời, là phương pháp-thủ đoạn của vua để quản lý bề tôi. Thuật là nhân trách nhiệm mà giao chức quan, theo tên gọi mà yêu cầu sự thực. Nắm lấy cái quyền cho sống và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tôi, đó là điều nhà vua nắm lấy. (Thiên Định pháp - Hàn Phi Tử). Thuật dùng nguời của Vua có ảnh hưởng lớn tới hưng vong của quốc gia vì Đem chính sự quốc gia trao cho nguời như thế nào sẽ quyết dịnh sự tồn vong, trị loạn của quốc gia. Nếu vua không có thuật dùng nguời thì vô luận dùng nguời thế nào đều làm hỏng việc (Thiên Bát Thuyết - Hàn Phi Tử). Thuật của Vua chính là thực hiện “vô vi” trong đạo Lão: Nhà Vua chớ để lộ cho nguời ta biết mình muốn gì… chớ để lộ ý của mình…Cho nên nói, bỏ điều mình ham, bỏ điều mình ghét mới thấy rõ được bụng dạ bầy tôi. Bỏ kinh nghiệm, bỏ khôn ngoan của mình thì bầy tôi sẽ tự đề phòng. Cho nên nhà vua khôn ngoan nhưng không dùng cái khôn ngoan ấy để lo lắng, mà để cho muôn vật biết được cái chỗ nó phải đứng. Nhà vua có hạnh nhưng không khoe cái hạnh của mình mà quan sát lý do hành động của bề tôi. Nhà vua có dũng nhưng không khoe mạnh, khiến cho bầy tôi trổ hết sức mạnh của mình. Vì vậy, nhà vua bỏ sự khôn ngoan mà lại sáng suốt, bỏ tài giỏi mà có được công lao, bỏ dũng mà lại có được sức mạnh. Bầy tôi giữ chức vụ của họ, trăm quan có nhiệm vụ không thay đổi, nhà vua dựa theo năng lực của họ mà dùng. Cái đó gọi là nắm lấy cái bất biếnCho nên nói: [/size][size=32]“Đạo vắng lặng ở vào nơi không có chỗ đứng. Nó trống rỗng không ai biết nó ở đâu”. Vua sáng vô vi ở trên, bầy tôi lo lắng ở dưới...[/size][size=32].[/size]
[size=32]Thuật phải luôn gắn liền với Pháp. Nhà vua không có thuật trị nước thì ở trên bị che đậy, bầy tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào. Đó đều là những công cụ của bậc đế vương. (Thiên Định pháp- Hàn Phi Tử). Thuật dùng nguời tuân phải các nguyên tắc và phương pháp như: (1) dùng pháp chế để tuyển nhân tài, không dựa vào ý riêng mà cất nhắc; xét công lao theo pháp lệnh, không theo ý riêng để ước lượng (Thiên Hữu Độ - Hàn Phi Tử); (2) bậc minh chủ căn cứ công lao để ban tước vị và bổng lộc, lường tài năng để trao chức quan (Thiên Nhân chủ - Hàn Phi Tử); (3) lấy chức quan để thử, rồi xét thành tích công việc thì nguời tầm thường cũng rõ được kẻ đó ngu hay khôn (Thiên Hiển học - Hàn Phi Tử); (4) Vạn vật đều có tính thích nghi của nó, các loại nhân tài đều có chỗ dùng của nó. Nếu các vật đều có được chỗ thích hợp, các loại nhân tài đều có được cương vị thích đáng để phát huy tác dụng thì bậc vua chúa sẽ đạt tới “vô vi” (Thiên Dương giác - Hàn Phi Tử). Có thể nói, biết Thuật dùng nguời, Vua mới có được những nguời thi hành pháp luật mạnh. Mà Hễ những nguời thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những nguời thi hành pháp luật mà yếu thì nước yếu (Thiên Hữu độ - Hàn Phi Tử)[/size]
[size=32]- Thế: là Quyền lực, là địa vị của Vua để chế ngự bề tôi. Nếu Vua không có cái thế mạnh thì không thể hành Pháp, còn Thuật là để bảo vệ cái Thế của Vua không mất vào tay của bề tôi.Vua nắm quyền bính đồng thời có uy thế, nhờ vậy mà mệnh lệnh ban ra mới quán triết chấp hành, lệnh cấm ban ra ngăn chặn được hành vi tà ác (Thiên Bát kinh - Hàn Phi Tử). Hàn Phi cho rằng, Kiệt làm thiên tử, có thể khống chế được thiên hạ không phải ông ta hiền mà cái Thế của ông ta nặng. Nghiêu làm kẻ thất phu, không thể sửa đổi ba nhà, không phải vì ông ta hỏng mà vì cái địa vị của ông ta thấp…Cho nên ngắn mà khống chế dài là nhờ địa vị. Hư hỏng mà khống chế nguời hiền là nhờ Thế (Thiên Công Danh - Hàn Phi Tử). Từ đó, ông cho rằng giữ được Thế là đủ để Vua trị nước vì dân chúng vốn phục tùng quyền thế, chứ không mấy nguời vì đạo nghĩa mà cảm hóa…. Vua Lỗ Ai Công là ông vua kém, nhưng khi quay mặt về phương nam làm vua một nước thì dân ở trong bờ cõi không ai là không làm tôi của ông. Đó là vì dân vốn phục tùng theo uy thế… Trọng Ni làm bề tôi của ông ta, còn ông ta làm vua của Trọng Ni. Trọng Ni không phải thích cái nghĩa của nhà vua nhưng phải phục tùng cái thế của nhà vua (Thiên Ngũ đó - Hàn Phi Tử). Ngoài ra, Hàn Phi cũng cho rằng vua ví như đầm nước sâu chứa đựng quyền thế. Quyền thế ví như cá mà bề tôi truy cầuNếu vua để mất quyền thế vào tay bề tôi thì cũng như cá một khi rời khỏi đầm sâu, không thể bắt lại được vậy (Thiên Nội trừ thuyết hạ - Hàn Phi Tử). Nếu vua mất quyền thế sẽ bị nguời ta chế ngự, đối mặt với nguy cơ mất nước mạng vongVì thế, nói chung bậc vua sáng cai trị nước là nhờ vào cái thế. Cái thế không thể bị hại thì dù có sức cả thiên hạ cũng không thể làm gì được. Cái thế có thể bị hại thì những kẻ kém cỏi như Như Nhĩ, Ngụy Tề và các nước Hàn Ngụy cũng có thể làm hại(Thiên Nạn tam - Hàn Phi Tử).[/size]
[size=32]Có thể nói, duới sự kế thừa và phát triển trên cơ sở tổng hợp các yếu tố ở các học thuyết Nho, Lão, Pháp của Hàn Phi, Pháp trị đã trở thành một học thuyết chính trị hiệu quả trong việc trị quốc. Trong bối cảnh thời Chiến quốc, khi các học thuyết Khổng, Mạnh đã bất lực trước thời cuộc, sự xuất hiện của Hàn Phi Tử đã góp công lớn giúp Tần Thủy Hoàng hoàn thành công cuộc thống nhất Trung Quốc. Sau đó, nó tiếp tục góp phần tạo nên cơ sở lý luận cho nền quân chủ chuyên chế Trung Hoa (nhưng luôn bị che dấu bởi cái vẻ ngoài Nho giáo). Sự thất thế của Pháp trị bắt đầu từ sự sụp đổ của nhà Tần. Việc nhà Tần vì pháp luật hà khắc quá mà mất thiên hạ không có nghĩa là đường lối Pháp trị của Hàn Phi kém, mà do nguời dùng Pháp trị đã không vận dụng học thuyết một cách linh hoạt khi điều kiện thực tế đã thay đổi. Vì thế, tuy Hàn Phi Tử còn những hạn chế nhất định do điều kiện lịch sử khách quan và mục đích chủ quan của Hàn Phi, nhưng về nhiều mặt, nếu biết cách vận dụng và khai thác những mặt tích cực, nó vẫn có nhiều ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện luật pháp ở Việt Nam hiện nay.[/size]

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  EmptyFri Jul 09, 2021 6:26 pm

 1.2 Nội dung cơ bản trong đường lối Pháp trị của Pháp gia
Hàn Phi Tử là tác phẩm quyết định của toàn bộ học thuyết Pháp gia. Tác phẩm chứa đựng toàn bộ tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi lúc đầu phổ biến rộng rãi ở Hàn, rồi sang Tần và sau đó được phổ biến rộng rãi khắp nơi suốt thời Chiến Quốc. Đến đời Tần, nó được chỉnh lý lại gọi là “Phi Tử”. Đến đời Tống đã bắt đầu có nguời gọi là “Hàn Phi Tử”. Trước Hàn Phi, như đã trình bầy ở trên, lý thuyết pháp gia đã xuất hiện với những đại diện như Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo… Quản Trọng, Thương Ưởng mới chỉ thấy được cái quan trọng của phép tắc. Thân Bất Hại coi trọng Thuật. Thận Đáo coi trọng Thế. Nhưng chỉ đến khi Hàn Phi tập hợp được ba yếu tố Pháp, Thuật, Thế, đặt chúng trong mối quan hệ tương tác, vận động không ngừng, đồng thời sử dụng một học thuyết Triết học (Đạo Lão) làm xuơng sống cho lý thuyêt Pháp trị thì Pháp trị mới thực sự trở thành một học thuyết đầy sức sống và thuyết phục. Vì thế, Hàn Phi là học giả lớn nhất của trường phái Pháp gia. Hàn Phi Tử là tác phẩm quyết định của học thuyết Pháp trị và chỉ cần đọc Hàn Phi Tử là có thể nắm được toàn bộ học thuyết này.
Nội dung cơ bản của đường lối pháp trị là đề cao pháp luật với tư cách là công cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. “Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa”. Nội dung này tập trung thể hiện qua ba chủ điểm : Pháp,  Thuật và Thế. Hàn Phi, căn cứ tình hình thực tế lúc bấy giờ và trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của các Pháp gia thời kỳ trước đã lần đầu tiên nêu rõ mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, thống nhất giữa Pháp-Thuật-Thế. Muốn đẩy mạnh cải cách chính trị, thay đổi chế độ, phục vụ và bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp địa chủ mới thì phải tiến hành biến pháp, thực thi pháp trị. Muốn thực thi pháp trị thành công thì phải có Thế và giữ được Thế (Quyền lực chính trị). Nhưng chỉ có Pháp, có Thế mà không có Thuật thì cũng không thể đạt được mục đích. Nếu có Thuật, có Thế mà không có Pháp, thì các lệnh ban ra cũng không thể thi hành hiệu quả. Vì thế, Pháp-Thuật-Thế phải cùng tồn tại, vận hành hỗ trợ lẫn nhau thì mới có thể trị nước, an dân; binh cường, nước mạnh.
- Pháp: Pháp luật của vua, thể hiện ý chí của vua, đuợc ban bố cho toàn dân biết, làm theo pháp lệnh và giám sát lẫn nhau. Pháp như tấm guơng sáng soi thấu gian tà, giúp vị vua tầm thường chế phục được kẻ gian tà. Lập pháp luật không phải để phòng bị Tăng Sâm, Sử Thu mà để cho những ông vua tầm thường có thể ngăn chặn Đạo Chích (Thiên Thủ Đạo-Hàn Phi Tử). Pháp luật khiến nguời hư trở nên tốt. Nay có đứa con hư hỏng… Lấy tình yêu của cha mẹ, lấy đức hạnh của những nguời trong làng, lấy cái khôn ngoan của ông thầy học, cả ba cái tốt đều thi hành, nhưng rốt cuộc nó vẫn không lay chuyển. Quan lại trong châu sai binh lính thi hành phép công tìm bắt kẻ gian. Lúc đó nó mới hoảng sợ, thay đổi tính nết, tính hạnh của mình… Dân chúng nếu được yêu thương thì sinh kiêu căng, nhưng nghe theo uy lực (Thiên Ngũ đố-Hàn Phi Tử). Trước Pháp luật, mọi nguời đều bình đẳng (trừ Vua). Pháp luật là thượng tôn trong nhà nước. Pháp luật phải minh bạch. “Pháp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu”. Lập pháp phải thay đổi tùy thời kỳ, dựa vào tình hình thực tế. “Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn. Biết cai trị dân chúng nhưng lệnh cấm không thay đổi thì nước bị cắt theo. Cho nên bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi” (Thiên Tâm độ-Hàn Phi Tử). Nhưng pháp luật và chính sách phải ổn định, thường xuyên thay đổi sẽ hại cho dân.Nấu cá nhỏ mà quấy trộn nhiều sẽ làm hư nát cá. Trị nước lớn mà thay đổi pháp lệnh nhiều thì dân bị tổn hại. Do vậy, Vua nắm quyền thống trị tôn sùng sự ổn định, không tán thành việc thường xuyên thay đổi pháp lệnh (Thiên Giải Lão-Hàn Phi Tử). Đối với những kẻ hại Pháp, phải nghiêm trị. Nội dung chính yếu của Pháp là Thưởng và Phạt. Theo Hàn Phi, Thưởng và Phạt cần được nhấn mạnh vì:
+ Thứ nhất, nguời ta có tâm lý ham thưởng sợ phạt nên áp dụng thưởng phạt là cách cai trị hữu hiệu nhất. Ham lợi ghét hại, mọi nguời đều thế. Thưởng nhiều và chắc chắn, thì nguời ta coi thường kẻ địch; phạt nặng và dứt khoát thì nguời ta không bỏ chạy... Ham lợi sợ tội, không ai không thế. Người chỉ huy mọi nguời mà không dùng cái phép khiến mọi nguời đều theo, lại nối theo cái đức hạnh mà trăm nguời không có một nguời làm được, nguời hành nhân vẫn chưa biết cái đạo dùng nguời vậy. (Thiên Nạn nhị - Hàn Phi Tử). Thưởng hậu thì cái mình muốn có sẽ được nhanh; phạt nặng cái mình muốn cấm sẽ cấm được chóng. (Thiên Lục phản - Hàn Phi Tử).
+ Thứ hai, nếu vua để mắt nhìn, để tai nghe và dùng đầu óc suy nghĩ thì rất dễ bị thần thuộc a dua lừa bịp. Nhưng một khi đã áp dụng luật lệ thưởng phạt, thì sẽ tránh được tệ hại đó. Bởi vì thưởng phạt theo luật lệ là phán xét theo sự kiện khách quan, việc gì đáng thưởng, điều nào nên phạt, đều được định sẵn bằng luật lệ minh bạch, khỏi bị ảnh hưởng bởi tình cảm chủ quan. Nếu thưởng phạt nghiêm minh, dân chúng sẽ nỗ lực phấn đấu: Nếu dân chúng biết rằng thưởng phạt đều xuất phát từ hành vi của bản thân, thì sẽ nỗ lực cầu lấy lợi ích, mà không mong vào sự ban ơn của vua (Thiên Nạn tam - Hàn Phi Tử).
+ Thứ ba, thưởng phạt là lợi khí sắc bén, để vua chúa kiểm soát thầm thuộc. Vua không được để bề tôi nắm lấy quyền thưởng phạt. Hổ sở dĩ chế ngự được chó là nhờ bộ nanh vuốt của nó. Nếu Hổ bỏ đi bộ nanh vuốt, để cho chó dùng, thì nguợc lại hổ sẽ bị chó chế phục. Bậc vua chúa nhờ vào đại quyền hình và đức để chế ngự bề tôi, nếu bỏ đi hai đại quyền đó và để cho bề tôi sử dụng, thì nguợc lại vua sẽ bị bề tôi chế ngự (Thiên Nhị bính - Hàn Phi Tử).
Ngoài chủ trương “Thưởng hậu mà giữ chữ tín, phạt nghiêm mà kiên quyết chấp hành”, Hàn Phi còn cho rằng phạt nhẹ không phải đạo trị quốc. Tiếc cỏ tranh thì hại cho lúa, thương trộm cướp thì hại cho dân lành. Nay nhẹ hình phạt, thi hành khoan dung ân huệ, như thế là làm lợi cho bọn gian tà và làm hại đến nguời lương thiện vậy (Thiên Nạn nhị - Hàn Phi Tử). Hình phạt nhẹ như mô đất nhỏ mà làm cho nguời ta hay vấp. Dân ham cái lợi nên coi thường cái tội, cho nên việc gian không chấm dứt… Nay nếu dùng hình phạt nhẹ thì thế nào dân cũng coi thường…. Hình phạt nhẹ là cái mô đất của dân. Vì vậy, con đường dùng hình phạt nhẹ nếu không làm nước loạn thì cũng là chăng bẫy lừa dân. Cái đó mới thực sự là làm thương tổn đến dân. (Thiên Lục phản-Hàn Phi Tử). Việc thưởng phạt cũng không được tùy tiện. Nếu ban thưởng tùy tiện, nguời có công cũng lười làm việc; nếu tùy ý miễn xá hình phạt, kẻ gian trá sẽ dễ làm bậy (Thiên Chủ đạo - Hàn Phi Tử). Tăng nặng hình phạt, không tùy tiện ban thưởng, ấy là vua yêu quý dân, dân sẽ đua nhau tranh thưởng; tùy tiện ban thưởng, giảm nhẹ hình phạt, ấy là vua không yêu quý dân, dân sẽ không đua nhau tranh thưởng (Thiên Sức lệnh - Hàn Phi Tử).
Đối với việc chấp pháp, phải ngăn cấm tư tâm, tư ý, tư nghĩa. Hàn Phi ca ngợi vua Thuấn giết chết quan lại lập công trước khi mệnh lệnh ban hành, tán dương vua Vũ trừ khử Phòng Phong vì đến muộn, chứng minh “thái quá” và “bất cập” đều trái với pháp quy. Tất cả nhằm một mục đích duy nhất để đảm bảo thực hiện Pháp trị thành công!
- Thuật: Theo Hàn Phi, vua muốn trị nước, thi hành Pháp trị thì không thể để mất Thế. Muốn không mất Thế, vua cần phải biết Thuật. Thuật tức là thuật dùng nguời, là phương pháp-thủ đoạn của vua để quản lý bề tôi. Thuật là nhân trách nhiệm mà giao chức quan, theo tên gọi mà yêu cầu sự thực. Nắm lấy cái quyền cho sống và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tôi, đó là điều nhà vua nắm lấy. (Thiên Định pháp - Hàn Phi Tử). Thuật dùng nguời của Vua có ảnh hưởng lớn tới hưng vong của quốc gia vì Đem chính sự quốc gia trao cho nguời như thế nào sẽ quyết dịnh sự tồn vong, trị loạn của quốc gia. Nếu vua không có thuật dùng nguời thì vô luận dùng nguời thế nào đều làm hỏng việc (Thiên Bát Thuyết - Hàn Phi Tử). Thuật của Vua chính là thực hiện “vô vi” trong đạo Lão: Nhà Vua chớ để lộ cho nguời ta biết mình muốn gì… chớ để lộ ý của mình…Cho nên nói, bỏ điều mình ham, bỏ điều mình ghét mới thấy rõ được bụng dạ bầy tôi. Bỏ kinh nghiệm, bỏ khôn ngoan của mình thì bầy tôi sẽ tự đề phòng. Cho nên nhà vua khôn ngoan nhưng không dùng cái khôn ngoan ấy để lo lắng, mà để cho muôn vật biết được cái chỗ nó phải đứng. Nhà vua có hạnh nhưng không khoe cái hạnh của mình mà quan sát lý do hành động của bề tôi. Nhà vua có dũng nhưng không khoe mạnh, khiến cho bầy tôi trổ hết sức mạnh của mình. Vì vậy, nhà vua bỏ sự khôn ngoan mà lại sáng suốt, bỏ tài giỏi mà có được công lao, bỏ dũng mà lại có được sức mạnh. Bầy tôi giữ chức vụ của họ, trăm quan có nhiệm vụ không thay đổi, nhà vua dựa theo năng lực của họ mà dùng. Cái đó gọi là nắm lấy cái bất biếnCho nên nói: “Đạo vắng lặng ở vào nơi không có chỗ đứng. Nó trống rỗng không ai biết nó ở đâu”. Vua sáng vô vi ở trên, bầy tôi lo lắng ở dưới....
Thuật phải luôn gắn liền với Pháp. Nhà vua không có thuật trị nước thì ở trên bị che đậy, bầy tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào. Đó đều là những công cụ của bậc đế vương. (Thiên Định pháp- Hàn Phi Tử). Thuật dùng nguời tuân phải các nguyên tắc và phương pháp như: (1) dùng pháp chế để tuyển nhân tài, không dựa vào ý riêng mà cất nhắc; xét công lao theo pháp lệnh, không theo ý riêng để ước lượng (Thiên Hữu Độ - Hàn Phi Tử); (2) bậc minh chủ căn cứ công lao để ban tước vị và bổng lộc, lường tài năng để trao chức quan (Thiên Nhân chủ - Hàn Phi Tử); (3) lấy chức quan để thử, rồi xét thành tích công việc thì nguời tầm thường cũng rõ được kẻ đó ngu hay khôn (Thiên Hiển học - Hàn Phi Tử); (4) Vạn vật đều có tính thích nghi của nó, các loại nhân tài đều có chỗ dùng của nó. Nếu các vật đều có được chỗ thích hợp, các loại nhân tài đều có được cương vị thích đáng để phát huy tác dụng thì bậc vua chúa sẽ đạt tới “vô vi” (Thiên Dương giác - Hàn Phi Tử). Có thể nói, biết Thuật dùng nguời, Vua mới có được những nguời thi hành pháp luật mạnh. Mà Hễ những nguời thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những nguời thi hành pháp luật mà yếu thì nước yếu (Thiên Hữu độ - Hàn Phi Tử)
- Thế: là Quyền lực, là địa vị của Vua để chế ngự bề tôi. Nếu Vua không có cái thế mạnh thì không thể hành Pháp, còn Thuật là để bảo vệ cái Thế của Vua không mất vào tay của bề tôi.Vua nắm quyền bính đồng thời có uy thế, nhờ vậy mà mệnh lệnh ban ra mới quán triết chấp hành, lệnh cấm ban ra ngăn chặn được hành vi tà ác (Thiên Bát kinh - Hàn Phi Tử). Hàn Phi cho rằng, Kiệt làm thiên tử, có thể khống chế được thiên hạ không phải ông ta hiền mà cái Thế của ông ta nặng. Nghiêu làm kẻ thất phu, không thể sửa đổi ba nhà, không phải vì ông ta hỏng mà vì cái địa vị của ông ta thấp…Cho nên ngắn mà khống chế dài là nhờ địa vị. Hư hỏng mà khống chế nguời hiền là nhờ Thế (Thiên Công Danh - Hàn Phi Tử). Từ đó, ông cho rằng giữ được Thế là đủ để Vua trị nước vì dân chúng vốn phục tùng quyền thế, chứ không mấy nguời vì đạo nghĩa mà cảm hóa…. Vua Lỗ Ai Công là ông vua kém, nhưng khi quay mặt về phương nam làm vua một nước thì dân ở trong bờ cõi không ai là không làm tôi của ông. Đó là vì dân vốn phục tùng theo uy thế… Trọng Ni làm bề tôi của ông ta, còn ông ta làm vua của Trọng Ni. Trọng Ni không phải thích cái nghĩa của nhà vua nhưng phải phục tùng cái thế của nhà vua (Thiên Ngũ đó - Hàn Phi Tử). Ngoài ra, Hàn Phi cũng cho rằng vua ví như đầm nước sâu chứa đựng quyền thế. Quyền thế ví như cá mà bề tôi truy cầuNếu vua để mất quyền thế vào tay bề tôi thì cũng như cá một khi rời khỏi đầm sâu, không thể bắt lại được vậy (Thiên Nội trừ thuyết hạ - Hàn Phi Tử). Nếu vua mất quyền thế sẽ bị nguời ta chế ngự, đối mặt với nguy cơ mất nước mạng vongVì thế, nói chung bậc vua sáng cai trị nước là nhờ vào cái thế. Cái thế không thể bị hại thì dù có sức cả thiên hạ cũng không thể làm gì được. Cái thế có thể bị hại thì những kẻ kém cỏi như Như Nhĩ, Ngụy Tề và các nước Hàn Ngụy cũng có thể làm hại(Thiên Nạn tam - Hàn Phi Tử).
Có thể nói, duới sự kế thừa và phát triển trên cơ sở tổng hợp các yếu tố ở các học thuyết Nho, Lão, Pháp của Hàn Phi, Pháp trị đã trở thành một học thuyết chính trị hiệu quả trong việc trị quốc. Trong bối cảnh thời Chiến quốc, khi các học thuyết Khổng, Mạnh đã bất lực trước thời cuộc, sự xuất hiện của Hàn Phi Tử đã góp công lớn giúp Tần Thủy Hoàng hoàn thành công cuộc thống nhất Trung Quốc. Sau đó, nó tiếp tục góp phần tạo nên cơ sở lý luận cho nền quân chủ chuyên chế Trung Hoa (nhưng luôn bị che dấu bởi cái vẻ ngoài Nho giáo). Sự thất thế của Pháp trị bắt đầu từ sự sụp đổ của nhà Tần. Việc nhà Tần vì pháp luật hà khắc quá mà mất thiên hạ không có nghĩa là đường lối Pháp trị của Hàn Phi kém, mà do nguời dùng Pháp trị đã không vận dụng học thuyết một cách linh hoạt khi điều kiện thực tế đã thay đổi. Vì thế, tuy Hàn Phi Tử còn những hạn chế nhất định do điều kiện lịch sử khách quan và mục đích chủ quan của Hàn Phi, nhưng về nhiều mặt, nếu biết cách vận dụng và khai thác những mặt tích cực, nó vẫn có nhiều ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện luật pháp ở Việt Nam hiện nay.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  EmptySat Jul 10, 2021 4:32 pm

2. Ý nghĩa của đường lối pháp trị đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam
- Cho thấy vai trò quan trọng của Pháp luật đối với nhà nước, xã hội và con người
        Sự thất bại của các học thuyết Đức trị, Nhân trị và sự thành công của Pháp trị trong thời Xuân thu-Chiến quốc đã chứng minh được vai trò của pháp luật đối với nhà nước, xã hội và con nguời. Hàn Phi coi bản tính con nguời là đại ác, tuy có phần thái quá, nhưng không phải không có lý. Vì xét về bản năng: con nguời đói thì muốn ăn, lạnh thì muốn suởi, mệt thì muốn nghỉ, muốn lợi không muốn thiệt. Từ đó dẫn tới quan hệ xã hội nguời nguời đều có ham muốn, nếu không được thỏa mãn thì tranh dành nhau. Vì thế cần có giáo dục và pháp luật thì mới có thể kiềm chế được bản năng của con nguời và ổn định xã hội. Tuy nhiên, Hàn Phi chỉ trọng Pháp mà xem nhẹ giáo dục. Hàn Phi đã chỉ ra sự tác động của Pháp luật tới con nguời và xã hội trong Thiên Lục Phản: Mẹ thương con nhiều hơn cha, nhưng lệnh cha đưa ra được con thi hành gấp mười lần lệnh mẹ. Quan lại đối với dân không yêu thương nhưng mệnh lệnh của quan lại thì dân thi hành gấp vạn lần lệnh cha… Mẹ yêu nhiều thì con thường hư. Cha yêu ít, dạy bằng roi vọt thì con thường ngoan. Cho nên, nếu dùng cái pháp luật làm cái đạo trị quốc thì trước khổ sở nhưng cái lợi lâu dài. Nếu vua dùng chữ nhân làm đạo trị quốc thì vui chơi tạm thời nhưng sau đó nguy khốn. Tư tuởng này của ông đúng nhưng chưa đầy đủBởi vì, Giáo dục là để nguời ta tự cảm thấy không nên làm cái xấu, cái ác; còn Pháp luật là để nguời ta không dám làm cái xấu, cái ác và để trừng phạt cái xấu cái ác. Hình phạt nặng có thể làm nguời ta sợ nhưng để làm nguời ta phục thì phải làm nguời ta hiểu. Nếu chỉ sợ, mà không phục về lâu dài thành oán mà loạn. Nếu chỉ hiểu, mà không sợ, thì có thể vì cái lợi cá nhân mà làm bậy. Vì thế: Pháp luật là ngăn chặn cái nguy trước mắt, còn giáo dục là ngăn cái loạn về lâu dài. Nhưng xét đến cùng, sự ra đời của học thuyết Pháp trị của nó có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ ra sự tác động của pháp luật đối với hành vi của con nguời, với sự ổn định xã hội. Sự thành công trên thực tế của nó cũng chỉ ra vai trò quan trọng của Pháp luật với sự cường thịnh của quốc gia.
Luật pháp là phương tiện để củng cố nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Trên thực tế, những quốc gia trong thời Xuân thu - Chiến Quốc, trong thời gian có nguời chấp chính mang tư tuởng Pháp gia, tiến hành pháp trị đều tỏ ra vững mạnh. Quản Trọng, trong 40 năm làm tể tướng, ông tiến hành một loạt cải cách theo hướng (mà sau này gọi là) pháp trị trên những lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, giúp nước Tề nhanh chóng vững mạnh, vượt qua những nước chư hầu lớn khác. Tử Sản, được nhiều nguời coi là người khởi xướng của học thuyết pháp trị, trong hơn 20 năm chấp chính nước Trịnh, khiến nước Trịnh “cửa thành không cần đóng, trong nước không có trộm cắp, ngoài đường không có hành khất” (Sử ký). Đầu thời chiến quốc, các đại diện khác của Pháp gia như Lý Khôi ở Ngụy, Ngô Khởi ở Sở, thực hiện biến pháp, tiến hành Pháp trị đều khiến nước mình trở nên cường thịnh cả. Đến giữa và cuối thời Chiến quốc, Thân Bất Hại chấp chính mười lăm năm, giữ yên nước Hàn, quân đội lớn mạnh, không bị nước nào xâm chiếm (Sử ký). Nhưng nguời thành công nhất trong việc tiến hành Pháp trị trên thực tế là Thương Ưởng. Trong thời gian làm Tể tướng ở Tần, được sự ủng hộ của Tần Hiếu Công, Thương Ưởng hai lần tiến hành biến pháp, thực thi pháp trị. Nhờ đó, từ chỗ là nước có kinh tế - văn hóa lạc hậu, nước Tần vươn lên ngang bằng với các nước khác, trở thành cường quốc và xưng hùng ở phía Đông, đặt nền móng vững chắc cho sự thống nhất sáu nước của Tần Thuỷ Hoàng. Sau Thương Ưởng, dưới sự tổng hợp và phát triển của Hàn Phi, Pháp trị trở thành một học thuyết chính trị thực sự, được Tần Thủy Hoàng sử dụng để thống nhất Trung Quốc. Pháp trị mạnh trong thời Tần Thuỷ Hoàng, đã giúp Trung Hoa thu về một mối, thống nhất được đồng tiền, chữ viết; xây dựng Vạn lý trường thành để bảo vệ cương vực, lãnh thổ; thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển... Ngay cả sau này, mặc dù để mất vị trí chủ đạo trị quốc, Pháp trị vẫn thể hiện được vai trò của nó đối với sự hưng thịnh của quốc gia. Lịch sử đã cho thấy, những triều đại hưng thịnh thường là những triều đại “vừa tôn nho, vừa trọng pháp”. Tóm lại, nói như Hàn Phi thì: Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ nguời thi hành pháp luật mà mạnh, thì nước mạnh. Còn hễ nguời thi hành pháp luật mà yếu, thì nước yếu (Thiên Hữu độ - Hàn Phi Tử).
Những hạn chế của đường lối pháp trị của Hàn Phi đem lại bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam:
Có ba hạn chế lớn trong đường lối Pháp trị của Pháp gia:
+ Hàn phi chỉ nhìn thấy con nguời ở khía cạnh vụ lợi và phủ nhận Đức trị. Việc nhìn nhận con nguời thế nào sẽ ảnh hưởng tới việc quản lý con nguời ra sao. Hàn Phi cho rằng tính nguời là “ác” một cách triệt để nên cho rằng chỉ có thể bằng lợi ích (để dụ) và bằng hình phạt (để đe dọa, ép buộc), cùng với việc điều khiển bên ngoài thông qua giám sát chặt chẽ thì mới có thể buộc những nguời làm việc cho mình cố gắng hết sức. Đây là cách nhìn nguời một cách phiến diện. Vì trên thực tế, con nguời có những lý tưởng cao đẹp và trong những hoàn cảnh nhất định, sẵn sàng vì các lý tuởng ấy, có thể tạm quên đi các quyền lợi cá nhân của mình. Quốc gia bị xâm lược là một hoàn cảnh cụ thể có thể minh họa tốt nhất cho việc cá nhân có thể hi sinh lợi ích của mình. Tuy nhiên, trong thời đại của Hàn Phi, khái niệm “trung quân” lại hàm nghĩa trung với nguời nuôi mình, không cùng nghĩa với yêu nước. Các học giả Xuân Thu - Chiến Quốc chu du từ nước này qua nước khác để kiếm nguời nuôi mình, phát huy cái tài của mình và sẵn sàng vì nguời nuôi mình, tiêu diệt chính nước mình. Ngũ Tử Tư, mà văn hóa Trung Quốc cho là vị thần điển hình, đem quân Ngô về đánh bại nước Sở, nước của chính mình, rồi hi sinh cho nước Ngô là một thí dụ. Chính bản thân Hàn Phi cũng là ví dụ. Mặc dù là công tử nước Hàn, sau khi không thuyết phục được vua Tần đánh Hàn, ông sẵn sàng nói cách phá kế hoạch hợp tung của thiên hạ, lấy nước Triệu, diệt nước Hàn…(Thiên Lần đầu yết kiến vua Tần-Hàn Phi Tử) để phục vụ sự nghiệp thống nhất thiên hạ của vua Tần. Hoàn cảnh lịch sử là vậy, bản thân Hàn Phi là vậy, ông sao tránh khỏi việc nhìn nhận bản tính con nguời chỉ vì lợi ích cá nhân mà phục vụ cho vua còn vua chỉ có thể kiểm soát, khống chế bề tôi bằng lợi ích và thủ đoạn. Cũng từ chỗ nhận thức bản tính con nguời là Đại ác và ra đời trên cơ sở chống lại tư tuởng Nho giáo, Hàn Phi chủ trương loại trừ Đức trị trong trị quốc. Đây cũng là sai lầm cơ bản vì theo lẽ tự nhiên có âm phải có dương, có cương phải có nhu, đạo trời là ở lấy chỗ thừa bù chỗ thiếu… Pháp luật là quan trọng để quản lý xã hội nhưng nếu chỉ sử dụng pháp luật thì mọi hoạt động sẽ trở nên cứng nhắc. Xét một cách tổng quát, cái gì quá đều không tốt: Đức trị quá mức, lòng dân coi thường mà loạn. Pháp trị quá mức, lòng dân sinh oán mà loạn. Vì thế, trong quản lý xã hội, Pháp trị và Đức trị phải thống nhất bổ sung cho nhau, tùy thời mà đổi vị trí chính, phụ thì xã hội mới có thể ổn định và phát triển.
Xây dựng Pháp luật của vua, do vua, vì vua: Do điều kiện lịch sử khách quan, dựa trên nhu cầu cai trị của vua, Pháp trị của Hàn Phi là pháp luật của vua, là việc vua sử dụng pháp luật để cai trị thiên hạ. Trong đường lối Pháp trị, thân phận của nguời dân, dù được nêu ra theo hướng bình đẳng trước pháp luật, nhưng không phải với nghĩa “dân chủ” và pháp luật được “thượng tôn” nhưng vua vẫn đứng trên pháp luật. Chi có vua là chủ, có quyền sở hữu, còn tất cả chỉ có quyền hưởng dụng. Pháp trị của Hàn Phi là pháp trị phục vụ quyền lợi một nguời chứ không phải pháp trị phục vụ một giai cấp, càng không phải pháp trị phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Chủ trương mọi nguời bình đẳng trước pháp luật của Pháp trị, tuy chống lại tư tuởng phân chia đẳng cấp của Nho giáo, nhưng đồng thời lại làm nổi bật hơn thân phận nô lệ của nguời dân. Biện pháp thi hành pháp trị là sử dụng Thế và Thuật, cũng chỉ để đề cao vị thế của vua và sử dụng thủ đoạn để cưỡng ép dân thi hành pháp lệnh của vua.
Tập trung quyền lực vào một cá nhân (vua): Pháp gia tuy khác Nho gia ở quan điểm trị nước nhưng hoàn toàn giống Nho gia ở quan điểm khẳng định quyền lực tối thượng của vua. Việc xây dựng một lý thuyết pháp trị vững chắc dựa trên quyền lợi của một cá nhân là không nên và sẽ không thành công. Đường lối pháp trị này đem lại rủi ro rất lớn đối với lợi ích quốc gia. Về lý thuyết, Hàn Phi cho rằng nếu biết dùng pháp-thuật-thế, vua không giỏi cũng có thể trị được nước. Nhưng trên thực tế, nếu vận dụng hiệu quả Pháp trị của Hàn Phi, ông vua đó nhất định phải là bậc thánh nhân. Muốn Pháp được thực hiện tốt, thì những nguời hành pháp phải mạnh. Muốn có nguời hành pháp mạnh, thì vua phải giỏi Thuật, và thực hiện được “Vô Vi”. Thuật có giỏi thì Thế mới vững. Thế có vững thì Pháp trị mới thành công. Hơn nữa, ngoài nắm vững Pháp - Thuật - Thế, bậc vua sáng còn phải biết Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao…Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn. Biết cai trị dân chúng nhưng lệnh ngăn cấm không thay đổi thì nước bị cắt. Cho nên bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi, và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi (Thiên Tâm độ - Hàn Phi Tử). Việc nước Tần dùng Pháp trị của Hàn Phi mà bình được loạn, thống nhất được thiên hạ nhưng đến khi cai trị thiên hạ, vẫn lối cũ mà làm, cũng chỉ được hiệu quả thời gian đầu, về sau lại vì pháp trị mà sụp đổ, không phải do Pháp trị dở mà là do nguời thực hiện Pháp trị dở. Xây dựng học thuyết dựa trên tài năng của một cá nhân là một hạn chế lịch sử mà Hàn Phi không thể vượt qua.
Như vậy, có thể nói, trong đường lối Pháp trị của Pháp gia, dân vẫn chỉ có thể vui buồn, ơn oán và mơ ước, chờ đợi vua giỏi, tôi hiền. Các hạn chế dân chủ và chủ trương quyền lực của pháp trị làm cho nó trở nên không bền vững và không thể phù hợp với thời đại chúng ta đang sống. Vì thế, khi xây dựng và hoàn thiện Pháp luật, Việt Nam cần tránh những hạn chế trên, phải xây dựng được một chế độ phân quyền theo mô hình tam quyền phân lập (tư pháp - hành pháp - lập pháp), thượng tôn pháp luật, theo đúng nghĩa không ai đứng trên pháp luật; pháp luật phải của dân, do dân, và vì lợi ích nhân dân; dân phải có quyền giám sát việc thực thi pháp luật.  
Góp phần đem lại cơ sở để xây dựng pháp luật, bộ máy pháp luật và ý thức pháp luật của công dân:
Thứ nhất: Pháp luật phải công bằng và được tôn trọng. Pháp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu
Thứ hai: Pháp luật không được hay thay đổi. Pháp lệnh mà thay đổi thì việc lợi hại cũng khác đi. Việc lợi hại cũng khác đi thì việc làm của dân thay đổi. Việc làm của dân thay đổi gọi là thay đổi nghề. Cho nên cứ lấy lý mà xét thì nếu việc lớn và nhiều mà hay thay đổi thì ít thành công … Cai trị một nước lớn mà hay thay đổi pháp luật thì dân khó về việc đó. Do đó ông vua có đạo, quý sự yên tĩnh, không ham thay đổi pháp luật. (Thiên Giải Lão)
Thứ ba: Coi trọng việc xây dựng đội ngũ nhân lực thực thi pháp luật: Không có nước nào luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn yếu. Hễ những nguời thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, hễ những nguời thi hành pháp luật mà yếu thì nước yếu. (Thiên Hữu độ)
Thứ tư: Pháp luật phải theo thực tế. Việc trị dân không có nguyên tắc bất biến; chỉ có pháp luật làm cho dân trị an. Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao… Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn… Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi, sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi. (Thiên Tâm độ)
Thứ năm: Người chấp pháp phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật Nước thắng được lửa, điều đó đã rõ. Nhưng lấy cái nồi để ngăn nước lại thì ở trên nước cứ sôi, bốc hơi đến cạn, nhưng ở dưới lửa vẫn cháy. Vì nước không có cái thế để thắng lửa. Nay việc cai trị thì thắng bọn gian tà, điều đó càng rõ hơn nữa. Nhưng bầy tôi giữ pháp luật lại làm thành cái nồi cho nên pháp luật chỉ sáng rõ ở trong bụng mà bỏ mất cái thế ngăn gian tà. (Thiên Bị nội)
Thứ sáu: Pháp luật phải nghiêm: Gọi là hình phạt nặng, tức kẻ gian chỉ được một chút lợi nhỏ mà bề trên bắt chịu một tội lớn. Dân chúng sẽ không vì chút lợi nhỏ mà chịu cái tội lớn, cho nên điều gian tà nhất định chấm dứt. Gọi là hình phạt nhẹ, tức kẻ gian được một cái lợi lớn nhưng bề trên trừng trị thì nhỏ. Dân ham cái lợi nên coi thường cái tội, việc gian không chấm dứt. Vì vậy cho nên thánh nhân trước đây có câu tục ngữ: “Người ta không vấp nơi núi non mà vấp nơi mô đất”. Ngọn núi cao nên người ta cẩn thận, mô đất nhỏ nên nguời ta coi thường. Nay dùng hình phạt nhẹ, thì thế nào dân cũng coi thường hình phạt…Hình phạt nhẹ là cái mô đất của dân. Vì vậy, dùng hình phạt nhẹ nếu không phải làm cho nước loạn thì cũng là chăng bẫy lừa dân. Cái này mới gọi là làm thương tổn đến dân. (Thiên Lục Phản)
Thứ bẩy: Pháp luật phải minh bạch, rõ ràng: Pháp luật rõ ràng thì nguời hiền không cướp của kẻ kém, nguời mạnh không thể hiếp kẻ yếu, nguời đông không thể hung bạo với kẻ ít (Thiên Thủ đạo) và chỉ riêng có pháp luật minh bạch mới giúp ích cho sự thực hiện một nền thịnh trị (Thiên Ngũ đố)
Mối quan hệ giữa Pháp - Thuật - Thế: Để thực hiện pháp trị thành công, phải có cả ba nội dung này. Trong bối cảnh hiện nay, có thể hiểu ý nghĩa của nó như sau: Nếu chỉ có Pháp, có Thế, không có Thuật - cách tìm và sử dụng nguời dùng Pháp mạnh thì- Pháp, thì áp dụng pháp trị vào thực tế thành côngNếu chỉ có Thuật, có Thế, không có Pháp thì không thể có Pháp trị. Có Thuật, có Pháp mà không có Thế, thì cấp trên không điều khiển cấp dưới, mệnh lệnh cấp trên được hiểu tùy tiện và làm tùy tiện, Pháp trị bị bóp méo. Tóm lại, Pháp - Thế - Thuật nằm trong mối quan hệ tương tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực thi Pháp trị.
 Kết luận
Như vậy, có thể nói, đường lối pháp trị của Pháp gia, mặc dù còn có những hạn chế lịch sử nhưng vẫn có những giá trị có ý nghĩ quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Việt Nam. Trong những năm qua, cùng với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế liên quan tới pháp luật và áp dụng pháp luật vào thực tế cần được giải quyết. Về cơ cấu tổ chức, Quốc hội có chức năng lập pháp nhưng một phần đáng kể chức năng lập pháp của Quốc hội lại do cơ quan hành pháp thực hiện. Từ đó dẫn tới tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Trong lập pháp, đó là tình trạng pháp luật hay thay đổi; hệ thống luật pháp không đầy đủ và đôi khi không rõ ràng; tình trạng “luật khung” dẫn tới luật chậm đi vào cuộc sống; các văn bản pháp luật thì chồng chéo; nguồn pháp luật thì chỉ có các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành dẫn tới sự cứng nhắc, không theo kịp thực tế; luật thì quy định chung chung còn nghi định thông tư được qui định chi tiết nhưng nhiều khi trái luật lại là công cụ thể điều chỉnh hành vi của công dân.… Trong hành pháp thì: thiếu nguồn nhân lực có trình độ, thiếu luật sư; nhiều quan chức nhà nước không nắm vững luật dẫn tới sai phạm; nhiều nguời có trách nhiệm thi hành pháp luật thì đạo đức kém dẫn tới ăn hối lộ, nể nang, làm sai luật…. Trong giám sát thì kém hiệu quả dẫn đến những vụ như PMU 18, vụ tham ô của Lã Thị Kim Oanh… xảy ra nhiều năm mới phát hiện được, làm thiệt hại của nhà nước hàng tỉ đồng. Nhìn chung, những vấn đề này, nếu thực hiện nghiêm chỉnh đường lối pháp trị của Pháp gia, kết hợp lý luận pháp trị với thực tiễn ở Việt Nam, thì hoàn toàn có thể khắc phục được. Tuy nhiên, cần tránh tính hình thức trong việc thực thi pháp luật và cần phải kết hợp giữa pháp trị với đức trị. Sự sụp đổ của nhà Tần không phải do đường lối pháp trị kém mà là do không biết vận dụng pháp trị linh hoạt và tuyệt đối hóa pháp trị.
Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó nhằm biến nó thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu, càng rộng, thậm chí trừu tượng, khó định lượng bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Nhưng đạo đức cũng có vai trò quan trọng của nó: Có những vi phạm đạo đức mà pháp luật không thể xét xử nhưng con người vẫn không thoát khỏi sự trừng phạt của lương tâm, dư luận. Vì vậy, có thể nói, Pháp luật được coi là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức được coi là pháp luật tối đa.
Pháp luật rất quan trọng trong quản lý nhưng quản lý xã hội không thể chỉ bằng pháp luật. Trong lịch sử Việt Nam, thời Lê thịnh trị vì biết tôn nho trọng pháp. Trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh, Người cũng chủ trương kết hợp nhuần nhuyễn Pháp trị và Đức trị: “Luật pháp phải dựa vào đạo đức” nhưng “luật pháp phải bảo vệ đạo đức”. “Đức trị” nhằm khuyên người ta làm những việc nên làm, “pháp trị” bắt buộc người ta phải tránh những việc nên tránh. “Đức trị” là trị nước bằng tình, bằng thuyết phục; “pháp trị” là trị nước bằng các đạo luật, bằng cưỡng chế . “Đức trị” và “pháp trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh không loại trừ nhau mà thống nhất, bổ sung cho nhau. Người chủ truơng dùng “đức” để cảm hoá ngăn chặn những thói hư tật xấu, hạn chế thấp nhất “cái ác” nảy sinh ở mỗi con người. Nhưng nếu ai đó phạm tội thì phải nghiêm trị theo pháp luật. Người từng nói: Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luận không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng. Vì vậy, cần phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng”. Theo Bác, trước khi yêu cầu người dân làm theo pháp luật cần làm họ hiểu được ý nghĩa mục tiêu của pháp luật; trước khi sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính cần sử dụng giáo dục thuyết phục.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang đặt trọng tâm vào việc phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ đối ngoại, tham gia sâu rộng vào sân chơi kinh tế quốc tế được xây dựng trên nền tảng các hợp đồng, các luật chơi đã được thừa nhận, thì Pháp trị phải được chú trọng hơn Đức trị. Trước mắt, cho đến khi chúng ta xây dựng được một xã hội được quy định từ A đến Z bằng pháp luật, một nhà nước pháp quyền mà trong đó ý thức của nguời dân tôn trọng pháp luật của nguời dân như một sự tất nhiên- như sống phải thở vậy- Đức trị chỉ được coi là biện pháp hỗ trợ cho Pháp trị. Vì thế việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam phải dựa trên cơ sở kết hợp đường lối Pháp trị và Đức trị của phương Đông, với mô hình nhà nước pháp quyền của Châu Âu và quan điểm pháp trị của Anh-Mỹ. Việc này đòi hỏi một thời gian không ngắn nhưng chúng ta có con đường nào khác và không thể không thành công nếu muốn tiến tới một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, dân giàu, nước mạnh.
 
Tài liệu tham khảo:
1.      PGS, TS. Doãn Chính, TS. Nguyễn Văn Trịnh (2007), Tư tưởng pháp trị của Pháp gia với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, NXB  Chính trị quốc gia
2.      Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh
3.      Vương Huệ Mẫn (2003), 100 nhân vật nổi tiếng có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, NXB Văn hóa-Thông tin
4.      Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Phan Ngọc, NXB Văn hóa-Tthông tin.
5.      Phan Ngọc (2005), Hàn Phi Tử, NXB Văn học
6.      Người Việt (phẩm chất và thói hư-tật xấu) (2008), NXB Thanh Niên
7.      Trí Tuệ (2003), Hàn Phi Tử- tư tưởng và sách lược, NXB Mũi Cà Mau
8.      Tranh luận để đồng thuận (2006), NXB Tri Thức
9.      http://www.icevn.org/vi/PhapTriLaGi
 




[1] ban lệnh rằng: trong những vụ án không phân xử được thắng thua, nguời dân muốn thắng kiện thì phải bắn tên trúng bia

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  EmptySun Jul 11, 2021 4:03 pm

TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI

 
NGUYỄN TÀI ĐÔNG  *
Hàn Phi (khoảng 280  233 TCN) là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia. Ông đã tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp phápthuậtthếđể xây dựng và phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật... Với những tư tưởng đó, học thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là học thuyết của đế vương.
Hàn Phi (khoảng 280 – 233 TCN), triết gia thời cuối Chiến Quốc,  là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia. Ông xuất thân từ giới quý tộc nước Hàn, đã nhiều lần dâng kế sách trị nước lên vua Hàn song chưa từng được sử dụng. Ông nhận thấy vua Hàn “không sửa đổi làm rõ pháp chế” (bất vụ tu minh kỳ pháp chế), từ đó tạo nên tình trạng “các nhà Nho dùng văn làm rối loạn pháp luật, bọn hiệp sĩ dùng võ phạm vào điều cấm” (Nho giả dụng văn loạn pháp, nhi hiệp giả dĩ võ phạm cấm. Sử ký. Lão Trang Thân Hàn liệt truyện). Về lý luận chính trị, ông tiếp thu điểm ưu trội của ba trường phái trong Pháp gia: “pháp” (Thương Ưởng), “thuật” (Thân Bất Hại), “thế” (Thận Đáo); từ đó, phát triển và xây dựng một hệ thống lý luận pháp trị(1) tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời.
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi phê phán mạnh mẽ lý thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên nhân đức của nhà cầm quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”), lý tưởng chính trị Nghiêu Thuấn là trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất nước.
Khổng Tử – người sáng lập Nho gia – làm hết sức để nhằm mục đích cho người quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói: “Bản thân mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi hành; còn nếu bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác) cũng không tuân theo” (Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận Ngữ. Tử Lộ). Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn – thánh hiền mang tính lý tưởng, song theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được qua “lễ” (chế ước bản thân quay về với điều lễ là nhân. “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”). Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện của ông là làm sao để xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử, ông tổ phái Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ. Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn của chân lý (phép “Tam biểu”), là lời nói của thánh nhân đời xưa, hay những gì đã từng được nói đến trong quá khứ. Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại quan điểm này: “Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương của hai người khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Nghiêu, Thuấn không sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là đúng với Nghiêu, Thuấn? Đời Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ trước đấy đã hơn hai ngàn năm mà còn không quyết định được cái đúng của đạo Nho và đạo Mặc. Nay lại muốn nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba ngàn năm, chẳng phải là không thể nào làm được sao? Nếu như không tham nghiệm được mà lại quyết định ngay thì đó là ngu. Nếu không thể quyết định được mà lại theo ngay thì đó là dối trá. Cho nên chuyện nêu cao các tiên vương, quyết định theo Nghiêu và Thuấn nếu như không phải là ngu thì cũng là dối trá vậy. Cái học ngu và dối trá, cái hành động bác tạp và trái pháp luật này vị vua sáng không theo”(2). Các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn Công thường được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn Phi cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác(3). Ông viết: “Bọn nhà Nho đời nay nói với nhà vua lại không nói đến cái làm cho đời nay được trị mà nói đến công lao trị an ngày xưa, không hiểu rõ công việc phép quan, không xét kỹ cái tình hình của bọn gian tà, mà đều nói đến những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca ngợi công lao của các tiên vương. Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: ‘Nghe lời nói của ta thì có thể làm bá vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn thày cúng, đồng cốt, vị vua có pháp độ không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực, bỏ cái vô dụng, không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả”(4).
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”(5).
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi, nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng biện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ không dùng để trị nước”(6).
Hai thiên Giải Lão và Dụ Lão trong tác phẩm Hàn Phi Tử, đã chứng tỏ Hàn Phi rất am hiểu Đạo gia. Nhìn chung, cả Đạo gia và Pháp gia đều yêu cầu mọi việc phải luôn biến đổi. Đạo gia nhấn mạnh đến tính tương đối của tri thức con người cũng như của chế độ, còn Pháp gia đi đến kết luận rằng, cần phải lấy yêu cầu trước mắt làm phương hướng cho việc giải quyết các vấn đề chính sự. Nó đòi hỏi người đứng đầu bộ máy quyền lực phải luôn theo sát tình hình thực tế: “Bậc thánh nhân không cốt trau dồi chuyện xưa, không noi theo những nguyên tắc bất biến, khi bàn việc làm ở đời thì dựa theo tình hình của thời mình mà đặt ra những biện pháp”(7). Hàn Phi phê phán một cách gay gắt những người hủ Nho, coi đó là “bọn học giả dốt nát ở đời không biết bản chất của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm nhí và dẫn những sách của người xưa để làm rối việc cai trị ở đời này... Nếu nghe lời họ thì nguy, nếu dùng kế họ thì loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối lo hết sức lớn”(Cool.
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu”(9), Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng trị nước bằng luật pháp (dĩ pháp trị quốc), chủ trương luật pháp không phân biệt sang hèn (pháp bất a quý), “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”(10). Đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
Thực hành pháp trị tất phải xây dựng pháp luật. Hàn Phi cho rằng, lập pháp cần phải xét đến các nguyên tắc sau: 1/ Tính tư lợiHàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ xe có lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của anh ta là ở chỗ người ta chết”(11). Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại. 2/ Hợp với thời thế. Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc thực tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi bật trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao... Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn... Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”(12). 3/ Ổn định, thống nhất. Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi (“số biến pháp”), vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo cơ hội cho bọn gian thần. 4/ Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm. 5/ Đơn giản mà đầy đủ. 6/ Thưởng hậu phạt nặng.
Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là: 1/ Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”. 2/ Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”, “hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ – nhà vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”(13); Nếu nhà vua biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được yên, mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm này thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh không thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi pháp quyền. 3/ Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho người không có công, vô cớ sát hại người vô tội. 4/ Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.
Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” của nhà vua, bởi vì “bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì bị tình thế buộc không thể không thờ”(14). Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất nước giàu mạnh, song nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh của nước mà làm giàu có cho các quan đại thần mà thôi”(15), Do vậy, nhà vua phải có “thuật” để dùng người. Đối với Hàn Phi, “thuật” chính là một loạt các phương pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua. Trong đó, phép hình danh là một thuật không thể thiếu được của bậc quân chủ. Với cách nhìn như vậy thì “pháp” và “thuật” gắn bó chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều là những công cụ của bậc đế vương”(16).
Ngoài “pháp” và “thuật”, Hàn Phi đặc biệt coi trọng “thế”. “Thế” còn được gọi là “quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, nó chỉ một sức mạnh quyền uy tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao gồm quyền sử dụng người, quyền thưởng phạt, v.v.. Hàn Phi cho rằng, chỉ khi nào nắm quyền thống trị trong tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể cai trị dân chúng. Trong thiên “Bát kinh”, ông viết: “Cái thế là cơ sở để thắng đám đông”(17) (Thế giả, thắng chúng chi tư dã). Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Hàn Phi quan niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế: 1/Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế. 2/ Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi. 3/ Cần sử dụng thuật thưởng phạt để củng cố quyền thế. 4/ Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình, không được để bề tôi quá quý hiển, đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua, thì “thế” là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là công cụ.
Sử dụng “pháp”, “thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền quân chủ, tạo nên bối cảnh chính trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt ở tại trung ương, thánh nhân nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch” (sự tại tứ phương, yếu tại trung ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu. “Hàn Phi tử. Dương quyền”); từ đó, góp phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền phong kiến thống nhất.
Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục được các nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Trung Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia cùng hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phương diện này, Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung Quốc, đã đưa ra một nhận xét tương đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
1. Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt nghiêm khắc.
2. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật.
3. Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
4. Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
5. Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử(18).
Thực tế sau đó cho thấy, tư tưởng Nho gia đã nhấn chìm chế độ pháp luật, mà chậm nhất là đời Đường đã xuất hiện một chủ nghĩa Nho gia khống chế toàn bộ hệ thống pháp luật. Ngô Kinh Hùng viết: “Bắt đầu từ đó, pháp luật là nô tỳ của đạo đức – nằm ở địa vị thứ cấp – không được những người tài năng nhất coi trọng”; “Từ trong thâm tâm, tôi cho rằng thắng lợi của Nho gia... đã đặt pháp luật học vào trong quan tài, khiến nó biến thành con rối trong suốt hơn 20 thế kỷ. Khoảng cuối thế kỷ XIX, ảnh hưởng của phương Tây mới bắt đầu giải thoát tinh thần pháp luật Trung Quốc ra khỏi tấm áo chế ngự của truyền thống Nho gia”(19). Ông còn nói thêm rằng, ở phương Tây thời cổ đại, người La Mã đã đạt đến trình độ cao nhất về tư tưởng pháp luật, qua suốt thời kỳ trung cổ, đến tận thời cận đại, pháp luật luôn được coi trọng và được mọi người công nhận là công cụ của chính nghĩa. Mặc dù đôi khi có những trào lưu hay lý luận vô chính phủ đặt luật thói quen cao hơn luật hình thức, song những hiện tượng này chỉ nằm ngoài lề đời sống xã hội và đời sống văn hóa. Có người nói sau khi tư tưởng pháp luật Trung Quốc đạt đỉnh cao thời kỳ đầu, hai nghìn năm nay nó chỉ có vị trí là một cái bóng, điều đó không phải là không có lý. Một số người khác thường đặt Pháp gia trong sự đối chiếu với tinh thần pháp luật của người Hy Lạp, La Mã cổ đại, song theo tôi, trên một phương diện nào đấy, khó có thể so sánh Pháp gia với hệ thống pháp luật Hy Lạp và đặc biệt là La Mã. Tư tưởng pháp trị của Trung Quốc mà Hàn Phi là đại biểu xuất sắc nhất vẫn thiếu một tinh thần pháp luật tối thượng. Tuy Hàn Phi quan niệm vua phải tuân theo pháp luật, song trên thực tế, vua là người siêu vượt lên trên pháp luật, vì mọi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều nằm trong tay nhà vua. Hơn nữa, xem xét dưới góc độ kỹ thuật, dù có một số người vẫn quan niệm pháp luật của Hàn Phi là sự kết hợp giữa lễ và hình, song để so sánh, thì “hình” vượt xa “lễ” rất nhiều. Trên thực tế, hình phạt là nền tảng của những điều luật mà Pháp gia đưa ra.
Nếu nhìn trong quá trình lịch sử thì cái gọi là sự thất bại của Pháp trước Nho có nhiều căn nguyên xã hội sâu xa. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã tiến hành một loạt cải cách quan trọng, như xác lập chế độ sở hữu đất đai phong kiến trên phạm vi cả nước, xây dựng hàng loạt các công trình thủy lợi lớn, loại bỏ chế độ phân phong, thiết lập chế độ quận huyện, thống nhất tiền tệ, hệ thống đo lường, bánh xe, văn tự toàn quốc, v.v.. Khi nhà Tần sụp đổ, nhà Tây Hán từ Hán Cao Tổ đến Hán Vũ Đế vẫn tiếp tục con đường chính trị và chính sách của Pháp gia và từ đây, sự đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng Nho và Pháp ngày càng trở nên gay gắt hơn.
Mặc dù từ Tần Thủy Hoàng đã phế bỏ chế độ nô lệ, song đến đầu Tây Hán, việc mua bán, sử dụng nô lệ với số lượng lớn vẫn được tiến hành, nhất là ở các nhà quý tộc sáu nước cũ (“lục quốc cường tộc”). Ngoài ra, các nhà buôn và các ông chủ sản xuất lớn (nhất là trong các ngành quan trọng: luyện sắt, làm muối, đúc tiền,…) cũng lấy nô lệ làm lực lượng lao động chủ yếu. Hai thế lực này cấu kết với nhau, gây một áp lực lớn đối với chính quyền nhà Hán. Trước tình hình đó, Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế tiếp tục tiến hành con đường của Pháp gia, bác bỏ các lập luận của hai nhóm trên, mạnh tay bãi bỏ phiên trấn, tăng cường trung ương tập quyền.
Sau khi lên ngôi, Hán Vũ Đế từng tiếp nhận kiến nghị “Độc tôn Nho học, loại bỏ các trường phái khác” (“Bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”) của Đổng Trọng Thư . Về mặt tuyên ngôn ý thức hệ là như vậy, song trên bình diện hành động thực tiễn, vị vua này vẫn triệt để đi theo con đường Pháp gia. Mặc dù Đổng Trọng Thư đề xuất “Xuân Thu đại nhất thống”, cổ vũ “làm vua, dựng nước trên cơ sở cắt đất, chia dân” (“cát địa phân dân nhi kiến quốc lập quân”. Xuân Thu phồn lộ. Chư hầu) nhằm quay lại chế độ chư hầu phân phong, song Hán Vũ Đế vẫn nhất quán chính sách “tiêu phiên” (diệt trừ phiên trấn), tiến hành trấn áp Hoài Nam Vương Lưu An, củng cố chế độ trung ương tập quyền. Ông bác bỏ chính sách kinh tế “nhà nước không tranh lợi với nhân dân” (“bất dữ dân tranh lợi”), “trả nghề làm muối và luyện sắt cho người dân” (“diêm thiết giai quy ư dân”. Hán Thư. Thực hóa chí) của Đổng Trọng Thư, thực hành chính sách nhà nước phải nắm ngành muối và sắt của Pháp gia; đồng thời, tiến hành các biện pháp “toán mân” (thu thuế tài sản của các nhà buôn giàu có và những người cho vay nặng lãi), “cáo mân” (đánh thuế các chủ sử dụng nô lệ?).
Đến trung kỳ, hậu kỳ Tây Hán, quá trình tập trung hóa đất đai vào tay số ít tư nhân (các nhà quý tộc phong kiến, quan lại, đại địa chủ) diễn ra ngày càng mạnh. Trong Hán Thư có chép: “Kẻ mạnh thì ruộng vườn ngàn mảnh, kẻ yếu thì tấc đất cắm dùi cũng không” (“Cường giả quy điền dĩ thiên số, nhược giả tằng vô lập chùy chi cư”. Hán Thư. Vương Mãng truyện). Thế lực đại địa chủ, thế gia hào tộc này cũng chính là lực lượng bảo thủ trong xã hội. Họ ra sức tuyên truyền một ý thức hệ lạc hậu nhằm kìm hãm sự bùng phát của số đông nông dân bị phá sản, tôn sùng Khổng Mạnh, đề cao việc đọc kinh điển (tôn Khổng độc kinh), thi nhau nhận mình là học trò của Khổng Mạnh. Sau khi Hán Vũ Đế vừa qua đời, lực lượng thế gia hào tộc liền mở cái gọi là “Hội nghị làm muối làm sắt” (“Diêm thiết hội nghị”), tấn công Pháp gia nhằm thay đổi con đường pháp trị. Tuy kế hoạch này thất bại, song đến lúc Hán Nguyên Đế qua đời, lực lượng trên đã khống chế được quyền lực trong triều đình và từ đó, ý thức hệ Nho gia chiếm địa vị thống trị. Quang Vũ Đế thành lập nhà Đông Hán, ông đặc biệt đề cao Nho học, coi các con chữ trong kinh điển như những lời sấm truyền, bất cứ ai tỏ thái độ hoài nghi hay bất kính với Nho gia đều bị khép vào tội chết “phi thánh vô pháp”. Đến năm 79, Hán Chương Đế tự mình chủ trì một cuộc hội kinh học Bạch Hổ Quan lớn, lý luận hóa thuyết “thiên nhân cảm ứng” của Đổng Trọng Thư, biên tập ra Bạch Hổ thông nghĩa nổi tiếng, chính thức tuyệt đối hóa địa vị ý thức hệ Nho gia. Cũng từ đây, hệ tư tưởng Pháp gia và phương thức pháp trị hạ thêm một bậc nữa trong lịch sử Trung Quốc(20).
Tóm lại, tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị, pháp luật, triết học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục,...; trong đó, then chốt chính là tư tưởng chính trị. Ông để tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã hội đương thời có thể vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được cục diện chính trị ổn định, để cho nước giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách chính trị học vĩ đại và học thuyết chính trị của ông được người xưa gọi là “học thuyết của đế vương” (đế vương chi học).r



Thạc sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
(1) Pháp trị (rule by law) ở đây được tạm hiểu là tư tưởng chính trị chủ trương căn cứ vào pháp luật để quản lý đất nước. Tại Trung Quốc, pháp trị là tư tưởng đặc trưng cơ bản của phái Pháp gia thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Tư tưởng pháp trị này đối lập (hoặc có thể coi là phản thuyết) với tư tưởng chính trị “lễ trị”, “đức trị” hay “nhân trị” của phái Nho gia.
(2) Phan Ngọc (dịch). Hàn Phi Tử. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 561.
(3) “Nho gia tuy tôn quân nhưng coi vua là người chỉ nhận sứ mạng của trời, mà ý dân là ý trời, nên đòi vua phải có đạo đức, ông vua nào không có tư cách đều bị Khổng Tử, Mạnh Tử chê hoặc mạt sát; mà Nho gia lại chính là những chính trị gia chỉ có ý niệm về đạo đức (nhân) về bổn phận (nghĩa) chứ chưa có ý niệm về pháp luật. Trái lại Pháp gia tôn quân hơn Nho gia nhiều thì lại có ý niệm rất rõ về pháp luật và đòi hỏi các vua chúa phải luôn luôn áp dụng đúng pháp luật. Cơ hồ họ cảm thấy rằng phải có pháp luật để giảm bớt uy quyền của ông vua. Họ không nói đến mệnh trời, ý dân nữa, không đề cao nhân nghĩa nữa mà chỉ nói đến pháp luật, đề cao pháp luật” . Nguyễn Hiến Lê. Hàn Phi Tử, tr.274.(4) Phan Ngọc. Sđd., tr. 570.
(5) Phan Ngọc. Sđd., tr. 130.
(6) Phan Ngọc. Sđd., tr. 327.
(7) Phan Ngọc. Sđd., tr. 540.
(Cool Phan Ngọc. Sđd., tr. 129.
(9) Phan Ngọc. Sđd., tr. 55.
(10) Phan Ngọc. Sđd., tr. 478-479.
(11) Phan Ngọc. Sđd., tr. 150-151.
(12) Phan Ngọc. Sđd., tr. 588.
(13) Phan Ngọc. Sđd., tr. 394.
(14) Phan Ngọc. Sđd., tr. 149
(15) Phan Ngọc. Sđd., tr. 480.
(16) Phan Ngọc. Sđd., tr. 479
(17) Phan Ngọc. Sđd., tr. 524
(18) Matthias Christian. Triết học pháp luật phương Đông và phương Tây. Trung Quốc chính pháp đại học xuất bản xã, Bắc Kinh, 2004, tr. 89.
(19) Matthias Christian. Sđd., tr. 90

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  EmptyMon Jul 12, 2021 4:50 pm

SUY NGHĨ VỀ HỌC THUYẾT PHÁP LÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


TRẦN THÁI DƯƠNG*
TS. Đại học Luật Hà Nội
Là hệ thống các quan điểm lí luận khoa học hoàn chỉnh về những vấn đề nhà nước và pháp luật, học thuyết pháp lí biểu hiện ở cấp độ cao của ý thức pháp luật, tức là những ý niệm của con người về hệ thống các thể chế và thiết chế nhà nước.
Về mặt cấu trúc, học thuyết pháp lí gồm các khái niệm, phạm trù, quy luật vận động khách quan, những mối liên hệ phổ biến về các hiện tượng nhà nước và pháp luật. Học thuyết pháp lí có thể luận giải về nhà nước và pháp luật đã qua, nhà nước và pháp luật đang tồn tại hay chủ trương, kiến giải về mô hình nhà nước và pháp luật trong tương lai.
Tùy theo mỗi cách phân chia với mục tiêu nhất định, học thuyết pháp lí có các loại khác nhau. Ở mức độ khái quát, qua tiến trình lịch sử phát triển của các chế độ xã hội có giai cấp, có nhà nước và pháp luật, khi khoa học hình thành, các quan điểm của các nhà triết học về đời sống chính trị, về nhà nước và pháp luật đã xuất hiện. Đến khi các quan điểm, tư tưởng đó chín muồi thì hình thành nên các học thuyết chính trị - pháp lí. Sau này, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học, luật học (khoa học pháp lí) đã tách thành ngành khoa học độc lập, học thuyết pháp lí giữ vai trò trung tâm, quyết định sự tồn tại và phát triển của luật học với tư cách là ngành khoa học trong hệ thống các khoa học xã hội và nhân văn. Bên cạnh các học thuyết chính trị - pháp lí, về nhà nước và pháp luật nói chung, lúc này những học thuyết về các vấn đề cụ thể như tổ chức bộ máy nhà nước về điều chỉnh pháp luật, các mô hình pháp luật đã được hình thành và phát triển.
Sự phân chia các học thuyết pháp lí thành các học thuyết chung gắn liền với các vấn đề chính trị và các học thuyết về từng lĩnh vực pháp luật chỉ có tính tương đối vì giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ hữu cơ không thể tách rời. Trên thực tế, chính trị và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng; chính trị là linh hồn của pháp luật, không có pháp luật nào phi chính trị hay chỉ là những vấn đề chuyên môn kĩ thuật thuần tuý. Ngược lại không có nền chính trị hay xu hướng chính trị nào lại không hướng tới vấn đề chính quyền và luật pháp. Nói như vậy cũng để thấy rằng các học thuyết pháp lí không đơn thuần là những lí thuyết về kĩ thuật pháp luật mà chúng luôn luôn thể hiện những vấn đề lợi ích giai cấp; thể hiện lập trường, thế giới quan và nhân sinh quan chính trị sâu sắc.
Học thuyết pháp lí với ý nghĩa là hệ thống các quan điểm, các phạm trù, khái niệm, các nguyên tắc, các quy luật và mối liên hệ có tính phổ biến giữa các hiện tượng nhà nước và pháp luật chỉ được hình thành và phát triển trên cơ sở hoạt động có tính đặc thù là hoạt động nhận thức tư duy khoa học. Hoạt động thực tiễn về nhà nước và pháp luật đã có từ trước đó, các quan điểm nhận thức có tính đơn lẻ về nhà nước và pháp luật cũng đã xuất hiện nhưng chỉ đến khi hoạt động tư duy lí luận có tính chuyên nghiệp xuất hiện thì mới xuất hiện các học thuyết khoa học nói chung và học thuyết pháp lí nói riêng.
Từ thời Cổ đại, trên thế giới đã hình thành những học thuyết chính trị - pháp lí nổi tiếng, xuất hiện những trường phái khoa học khác nhau về cùng vấn đề của hiện thực khách quan trong xã hội, đó là nhà nước và pháp luật. Những học thuyết nổi tiếng mà cho đến nay người ta vẫn còn suy ngẫm và kiểm nghiệm như thuyết pháp trị và thuyết đức trị ở Trung Quốc thời cổ.
Nhìn chung, các học thuyết pháp lí Cổ đại đã có nhiều đóng góp quan trọng, đặt nền móng cho sự tiếp tục phát triển của luật học thế giới sau này. Có những tư tưởng, quan điểm của các học giả thời đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Vượt qua đêm trường Trung cổ, chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế độ phong kiến thiết lập kiểu nhà nước tư sản, nhiều học thuyết chính trị - pháp lí ra đời với những nội dung rất phong phú đã mang lại cho nền luật học thế giới những bước tiến vượt bậc. Chẳng hạn: thuyết pháp quyền tự nhiên, thuyết khế ước xã hội, thuyết phân quyền...
Trên cơ sở tổng kết những thành tựu khoa học của thế giới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra học thưyết khoa học, cách mạng nhất về nhà nước và pháp luật. Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đem lại một cách nhìn toàn diện, khách quan, biện chứng và duy vật về những vấn đề chung như nguồn gốc, bản chất, vai trò, chức năng của các kiểu nhà nước trong lịch sử và đặc biệt là đối với nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa - kiểu nhà nước và pháp luật tiến bộ nhất và là cuối cùng trong lịch sử loài người. Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật là cơ sở phương pháp luận cho việc hình thành các học thuyết pháp lí xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam, các học thuyết pháp lí ở nước ta cũng được hình thành. So với các lĩnh vực khoa học khác, luật học là một ngành khoa học còn rất non trẻ đối với Việt Nam. Ngoại trừ một số ít các nhà luật học được đào tạo dưới chế độ thực dân Pháp, đa số các nhà khoa học pháp lí nước ta được đào tạo ở Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa khác như Cộng hoà dân chủ Đức, Ba Lan... Bước vào thời kì đổi mới với chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá, nước ta đã cử hàng loạt sinh viên và nghiên cứu sinh đi đào tạo nghiên cứu, học tập ở nhiều nước trên thế giới về các lĩnh vực khoa học, trong đó có lĩnh vực luật học. Đến nay, đội ngũ các nhà khoa học pháp lí của Việt Nam tương đối đa dạng và đang trưởng thành nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Nhìn chung nền khoa học pháp lí Việt Nam trong mấy chục năm qua có đặc điểm nổi bật nhất là chịu ảnh hưởng sâu sắc của khoa học pháp lí nước ngoài: Trước đó thì chịu ảnh hưởng của hệ thống khoa học pháp lí Pháp và châu Âu lục địa, về sau chịu ảnh hưởng của hệ thống khoa học pháp lí Liên Xô. Xu hướng hiện nay của khoa học pháp lí Việt Nam là vận dụng học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, tiếp thu các giá trị chung của nền văn minh nhân loại đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Học thuyết pháp lí không phải là các quan điểm, tư tưởng đơn lẻ hay các chủ trương, chính sách của lực lượng cầm quyền về nhà nước và pháp luật, nó chỉ được hình thành trên cơ sở hoạt động tư duy lí luận một cách có hệ thống do các nhà khoa học thực hiện. Nói cách khác, học thuyết pháp lí là sản phẩm của quá trình nhận thức khoa học sáng tạo về hiện thực xã hội, nó không phải đơn thuần là sản phẩm của ý chí hay lòng mong muốn. Do vậy, không có hoạt động khoa học một cách tự do, dân chủ thì cũng không có sự tồn tại của các học thuyết pháp lí.
Học thuyết pháp lí không phải là sản phẩm chỉ có ý nghĩa kinh viện, nó có ảnh hưởng rất lớn đến thực tiễn nhà nước và pháp luật. Giới quyền lực bao giờ cũng chịu ảnh hưởng của những quan niệm học thuyết pháp lí nhất định và từ đó hình thành trước những ý niệm về một nhà nước và hệ thống pháp luật cần phải có. Thực tế cũng đã chứng minh rằng không có hệ thống pháp luật nước nào có thể đầy đủ hoàn toàn để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội cần được điều chỉnh. Học thuyết pháp lí không chỉ ảnh hưởng đến việc hình thành một hệ thống pháp luật cụ thể về cơ cấu, về mục đích, nguyên tắc, phương thức điều chỉnh... mà còn đem lại những hiểu biết chung, những quan niệm về các giá trị của công bằng, dân chủ, tiến bộ... từ đó mà ảnh hưởng đến các quyết định lập pháp, những phán quyết của cơ quan nhà nước trong quá trình áp dụng pháp luật.
Học thuyết pháp lí cũng có vai trò to lớn đối với công tác giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân. Các vấn đề nhà nước và pháp luật được trình bày dưới dạng hệ thống tri thức khoa học có tính thuyết phục cao, qua đó thấm sâu vào suy nghĩ, biến thành nếp tư duy và hành động của người dân.
Với vai trò và giá trị như vậy, học thuyết pháp lí không chỉ có ý nghĩa học thuật, nó còn góp phần bổ sung và hỗ trợ tích cực cho hệ thống các quy phạm pháp luật. Ngày nay, nếu quan niệm đầy đủ và thực tế về nguồn luật thì cần phải thừa nhận vai trò không nhỏ của các học thuyết pháp lí.
Ở Việt Nam, từ trước, chúng ta không thừa nhận học thuyết pháp lí có giá trị bổ sung trực tiếp cho hệ thống các quy định pháp luật thực định, thường chúng chỉ được sử dụng có tính chất tham khảo trong giảng dạy, nghiên cứu ở các trường đại học, viện khoa học và nhiều khi mang tính kinh viện, ít được coi trọng đúng mức. Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam, học thuyết pháp lí có ảnh hưởng một cách gián tiếp theo cả hai chiều (tích cực và tiêu cực) đến quá trình hình thành, phát triển của hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước (cũng trên cơ sở các quy định của pháp luật). Chẳng hạn, do ảnh hưởng của nhận thức cứng nhắc đối với quan điểm học thuyết về bản chất, phương thức tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa theo kiểu “nửa nhà nước”, trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, hệ thống các cơ quan nhà nước đã được tổ chức triển khai sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, thậm chí bao trùm và che lấp hầu hết các thiết chế của đời sống xã hội dân sự.
Trong tổ chức quản lí nền kinh tế trước đây, với ảnh hưởng của thuyết “quản lí theo chức năng” (tức là nền kinh tế càng được phân chia thành nhiều ngành thì số cơ quan nhà nước cũng phải phình to ra, nếu không thì quản lí không xuể),[1] bộ máy nhà nước cũng được tổ chức một cách cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian. Đối với hệ thống pháp luật, do ảnh hưởng của quan điểm học thuyết pháp lí của các nước xã hội chủ nghĩa nên hệ thống pháp luật Việt Nam cũng mang những điểm riêng. Chẳng hạn, sự không tồn tại của Luật Lao động với tư cách là ngành luật độc lập (thực chất là một bộ phận trong ngành luật hành chính) do không tồn tại các quan hệ trao đổi hàng hóa sức lao động.
Học thuyết pháp lí có vai trò tích cực trong định hướng hành động khi áp dụng pháp luật, chẳng hạn lí thuyết về cấu thành tội phạm có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn đối với các cơ quan tư pháp nước ta, nhất là trong thời kì nước ta chưa có Bộ luật Hình sự.
Nhũng thời đại kinh tế đã qua cũng chấm dứt vai trò của một số loại học thuyết pháp lí nhất định. Chẳng hạn, học thuyết của Laptev ở Liên Xô trước đây về mô hình ngành luật kinh tế điều chỉnh các quan hệ kinh tế kế hoạch hóa, về hợp đồng kinh tế, về quyền quản lí nghiệp vụ của các xí nghiệp, về hạch toán kinh tế trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở nước ta... Những học thuyết về vai trò, chức năng kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế kế hoạch hóa, trong đó biến nhà nước trở thành kiểu nhà nước “toàn trị”[2] như thuyết “về tính cần thiết”, “thuyết phân công chức năng”.[3]
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta phải chuyển đổi tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của nhà nước và xây dựng hệ thống pháp luật với những nội dung và vai trò khác so với thời kì kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Hoạt động xây dựng nhà nước và hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay cần dựa trên những quan niệm mới theo hướng hội nhập quốc tế. Nền học lí pháp luật Việt Nam hiện nay cần phải được hình thành, thậm chí phải đi trước một bước để định hướng về lí luận khoa học cho việc triển khai các quan điểm đường lối chính trị của Đảng. Có thể nói, đây là điểm yếu cần phải khắc phục của khoa học pháp lí Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, có thể nói rằng trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta cũng cần tránh xu hướng du nhập một cách rập khuôn máy móc các học lí pháp luật nước ngoài vì điều đó không phải lúc nào cũng đem lại sự tương thích với điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống văn hoá Việt Nam. Việc tiếp thu và giao thoa giữa các nền văn hóa trên thế giới là điều khách quan nhưng nền học lí pháp luật Việt Nam ngày nay vẫn cần phải căn bản dựa trên nền tảng truyền thống dân tộc Việt. Mặc dù vậy, cần phải chú ý một thực tế lịch sử rằng Việt Nam không phải là cái nôi sản sinh hay khởi phát ra các học thuyết nói chung mà chỉ tiếp thu, chọn lọc và phát triển nó trong quá trình ứng dụng cho phù hợp với hoàn cảnh của đất nước và con người Việt Nam. Theo tôi, làm tốt được điều đó cũng đã có tác dụng to lớn và rất đáng tự hào rồi.
 



[1] Trương Văn Bân (chủ biên), Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; tr. 457.
[2] PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, Từ nhà nước toàn trị tới thời đại dân doanh , Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2005; tr. 3.
[3] Trương Văn Bân (chủ biên), Sđd; tr. 457.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  EmptyWed Jul 14, 2021 9:50 am

HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI- MỘT SỐ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN

 
LÊ CẢM
Tóm tắt: Ra đời cách đây trên hai nghìn năm, mặc dù còn có nhiều hạn chế do lịch sử, do bản chất giai cấp nhưng học thuyết Pháp trị của Trung quốc cổ đại vẫn toát lên nhiều giá trị tư tưởng quý báu mà học thuyết Nhà nước pháp quyền sau này đã tiếp thụ được. Những giá trị tư tưởng này đã đóng một vai trò tích cực trong lịch sử Trung quốc.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta nên tham khảo, tiếp thụ những hạt nhân tiến bộ của học thuyết này, như: đề cao pháp luật; pháp luật phải phù hợp với đời sống xã hội; và, pháp luật phải được thi hành triệt để, nghiêm minh.. Đấy là những vấn đề được đề cập đến trong bài viết.. Cuối thời Xuân thu sang đầu Chiến quốc, xã hội Trung Quốc lâm vào cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng: nền chính trị Thiên Tử của nhà Chu suy vong, các chư hầu cùng nổi lên tranh giành bá chủ.
Trung Quốc bước vào thời kỳ loạn lạc chưa từng thấy với hơn năm trăm năm chiến tranh đau thương " người chết đầy đồng, thây chất đầy thành " (Mạnh Tử). Hiện thực nóng bỏng đó là tiền đề tích cực cho ra đời hàng loạt các học thuyết tư tưởng, nhằm lý giải hiện thực và đề xuất những quan điểm, đường lối chính trị- những phương thuốc cứu đời từ loạn về trị.
Lịch sử Trung Quốc đã từng kiểm nghiệm vai trò các học thuyết "Đức trị ", "Vô vi trị ", "Kiêm ái "... Song chúng đều tỏ ra bất lực vì không đáp ứng được yêu cầu thời cuộc. Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết pháp trị đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu, nhanh chóng trở thành ngọn cờ tư tưởng góp phần đưa sự nghiệp thống nhất của nhà Tần đi đến thắng lợi, thúc đẩy sự chuyển biến xã hội Trung Quốc từ phong kiến sơ kỳ sang quân chủ chuyên chế, đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.
Học thuyết pháp trị với vai trò Tập đại thành của Hàn Phi Tử (-280-234) được hình thành trên cơ sở thống nhất của 3 học phái:
·             Pháp của Thương Ưởng (?- 338);
·             Thế của Thận Đáo (-370-290);
·             Thuật của Thân Bất Hại (-401-337),
đã phát triển rực rỡ ở thời kỳ tiên Tần và tuy không được bổ sung phát triển liên tục trong lịch sử như các học thuyết khác, song hôm nay dưới góc độ của khoa học pháp lý hiện đại để tìm hiểu về học thuyết này chúng ta vẫn thấy toát lên những giá trị tư tưởng bổ ích.
1. Pháp luật là công cụ của quyền lực chính trị
Trước tình hình rối ren, các chư hầu thi nhau nổi loạn tranh bá, tiếm đoạt quyền lực thiên tử, đa số các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại đều cho rằng: nguyên nhân xã hội loạn là do sự suy yếu địa vị của nhà Chu. Từ đó, họ thống nhất với nhau chủ trương tôn quân quyền (đề cao uy thế nhà vua). Từ điểm xuất phát này, mỗi học thuyết lại đề xuất những giải pháp khác nhau: Đức trị chủ trương dùng đạo đức, Pháp trị tìm thấy ở pháp luật tính khả thi cho việc thực hiện đường lối của mình. Đề cập đến phương thức cai trị- nội dung cốt lõi của vấn đề chính trị, các nhà pháp trị cho rằng: Việc trị nước, quản dân không thể dựa theo lễ nghi truyền thống mà phải được thực hiện trên cơ sở những đạo luật cụ thể và chặt chẽ. Pháp luật, theo Hàn Phi " là hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo pháp " 1 . Điều đó cho thấy Pháp trị đã coi pháp luật là cơ sở của việc cai trị.
Quan niệm của Hàn Phi về "pháp luật như dây mực, cái thuỷ chuẩn, cái quy, cái củ" (thước tròn, thước vuông)- là những đồ dùng làm tiêu chuẩn để lo đường sự đúng sai của các hành vi và làm khuôn phép để khen chê cho đúng. Theo các nhà pháp trị, pháp luật hết sức cần thiết để duy trì sự thắng thế của nhà vua vì pháp luật là gốc của vương quyền và để bảo vệ vương quyền, do vua đặt ra để bắt dân thi hành , theo quan niệm: "Pháp luật là gốc của vua, hình phạt là đầu mối của tình thương".
Sự cần thiết của pháp luật ở chỗ là mẫu mực để an dân, làm cho nước trị vì nó có mục đích xoá nguồn gốc của sự rối loạn " làm cho trị là pháp luật, gây ra loạn là cái riêng tư " 2 . Ở đây, tư tưởng của Hàn Phi không hẹn mà gặp các nhà tư tưởng vĩ đại của Hy Lạp cổ đại. Xolong (-638-559) cho rằng pháp luật là cái bảo đảm cho sự bình yên của quốc gia, " tình trạng vô chính phủ sẽ đem lại bao tai hoạ, đưa thành phố tới chỗ diệt vong. Chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự và tạo nên sự thống nhất ". Hêraclit (-530-470) cũng rất coi trọng pháp luật. Bằng câu nói nổi tiếng: " các nhà nước thị thành phải được thiết lập căn cứ trên pháp luật. Đấu tranh bảo vệ pháp luật cũng quan trọng như đấu tranh bảo vệ thành phố quê hương ", Ông đã coi pháp luật là phương tiện để thực hiện cái phổ biến.
Đặc trưng nổi bật của pháp luật là những quy tắc xử sự chung, làm khuôn mẫu hành vi cho mọi người trong xã hội. Sức mạnh của pháp luật được bảo đảm bằng chính sức mạnh quyền lực chính trị để buộc mọi người phải tuân theo. Và ngược lại, pháp luật được thực thi để củng cố và duy trì uy thế nhà vua. Cho nên, pháp luật là cẩm nang và phương tiện đặc biệt đảm bảo cho sự cai trị thành công. Ngoài pháp luật là chỗ dựa duy nhất để nhà vua tin cậy, tất cả các quan hệ khác như: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng... đều tuyệt đối không thể tin tưởng và luôn phải cảnh giác. Theo họ thì mọi tình cảm như: sự kính trọng, thuỷ chung, trung hiếu... đều là huyễn hoặc xa vời.
Sự nghi kỵ luôn là cần thiết và phải được coi là phương châm xử thế. Việc xem xét quan hệ giữa con người với nhau phải trên nguyên tắc lấy cái lợi làm hệ quy chiếu. Pháp trị cho rằng bản chất của con người là ác, luôn tranh giành, xâu xé nhau về lợi ích, cho nên, những lời lẽ ca ngợi sự tin tưởng giữa con người với nhau đều là giả dối hay ngây thơ trong chính trị. Với họ, đạo đức, nhân nghĩa chỉ là món hàng xa xỉ, những thứ đồ chơi của trẻ nhỏ. Cái quý nhất là pháp luật và chỉ có thể là pháp luật " áp dụng pháp luật thì kẻ trí phải theo mà kẻ dũng không dám cãi, khiến cho toàn dân noi theo một đường thì không gì bằng pháp luật. Pháp luật phân minh thì người trên được coi trọng, không bị lấn. Người trên được coi trọng không bị lấn thì vua mạnh, nắm được cái mối quan trọng "(3).
Cho rằng pháp luật là công cụ đắc lực và hiệu nghiệm nhất để duy trì và củng cố quyền lực chính trị (uy thế) của nhà vua- công cụ của đế vương, chỗ dựa vững chắc nhất để bảo đảm an toàn cho sự ngự trị của vua, nên theo Hàn Phi, nhà vua sáng suốt phải đặt pháp luật lên trên đức hạnh và trên cả người hiền (vụ pháp chứ không vụ đức) " Thánh vương không quý nghĩa mà quý pháp luật "(4).
Không chỉ thế, các nhà pháp trị còn chủ trương lấy pháp luật làm chuẩn mực duy nhất áp đặt cho các giá trị của đạo đức, tình cảm, văn hoá... trong đời sống xã hội. Có thể nói, Hàn Phi đã cực đoan khi độc tôn pháp luật.
Từ chỗ ghi nhận những nội dung quan trọng (như trên) đến việc phát hiện ra vai trò cực kỳ quan trọng của pháp luật là phương tiện hữu hiệu trong việc quản lý xã hội là sự phát triển logic của quá trình nhận thức mang tính khoa học trong tư duy các nhà pháp trị. Điều này thể hiện rõ trong vấn đề cáo gian (tố cáo kẻ gian) do Hàn Phi đặt ra: " cái đạo của minh quân là người được tố cáo việc gian của người sang. Thượng cấp cáo tội, thuộc hạ không tố cáo thì bị liên luỵ... " trong một huyện, nhà nào cũng gần nhau, họp nhau thành từng "ngũ" (năm nhà), từng " liên " (250 nhà), hễ ai tố cáo lỗi của người khác thì được thưởng, không tố cáo thì bị trị. Bề trên đối với kẻ dưới, kẻ dưới đối với bề trên đều như vậy cả. Như vậy thì trên dưới sang hèn đem pháp luật ra răn nhau, đều đem điều lợi ra dạy nhau 5 . Đây là biện pháp nhằm để thống nhất tư tưởng toàn dân, tạo khả năng tăng cường trật tự, trị an và kiểm soát hành động của mỗi người.
Tư tưởng này đã đặt cơ sở cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật và là một hình thức sơ khai của biện pháp nghĩa vụ dân sự liên đới trong khoa học pháp lý hiện đại- là một loại nghĩa vụ mà những người có nghĩa vụ luôn liên quan với nhau trong cả quá trình thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cũng như quyền yêu cầu của những người có quyền luôn được coi là một thể thống nhất. Biện pháp " cáo gian " của Hàn Phi đã tạo hiệu quả cao trong phòng ngừa tội phạm để giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Điều đó cho thấy, từ xa xưa các nhà pháp trị đã nhận thức được vấn đề mang tính bản chất: Pháp luật do giai cấp thống trị ban hành và là công cụ đắc lực để bảo vệ quyền lực chính trị. Bằng sự kết hợp giữa quyền lực và luật pháp, Pháp trị đã cho chính trị ly khai khỏi sự chế ngự của đạo đức và soi rõ thực chất của mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và người bị trị là quan hệ của quyền lực, vạch rõ cơ sở khoa học của mối quan hệ giữa luật pháp với chính trị trong vai trò là công cụ của quyền lực chính trị.
Khác với các nhà đức trị đã tìm cách đồng nhất thần quyền (thuyết thiên mệnh) với thế quyền, các nhà pháp trị đã không ngần ngại gạt bỏ những quan niệm sáo mòn trong quá khứ, trả lại một cách dứt khoát cho siêu nhiên những gì của nó để đề cao duy nhất vai trò của pháp luật- sản phẩm của nhân định. Họ tìm thấy niềm tin ở ngay nhân tố chủ quan, đề cao năng lực nhận thực và sức mạnh cải tạo ở chính con người, công khai tuyên bố bản chất của chính trị là quan hệ giữa con người với con người hoàn toàn mang tính trần gian và chỉ rõ quan hệ đó bị chi phối bởi yếu tố lợi ích. Vì thế, cái mà họ đề cao chính là uy thế địa vị (quyền lực) và pháp luật của nhà vua chứ không phải là sự thuyết giảng về thiên mệnh và đạo đức.
2. Pháp luật phải phù hợp với đời sống xã hội
Một trong những quan điểm hàng đầu của Pháp trị cho rằng: việc ban hành pháp luật phải thích ứng với thời đại, theo nguyên tắc thời biến pháp biến, " pháp luật mà cùng với thời mà thay đổi thì nước trị, trị dân mà hợp với đời thì có kết quả... thời thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn. Đời đã thay đổi mà cấm lệnh không biến thì nước bị chia cắt. Cho nên thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà đổi, cấm lệnh cùng với đời mà biến " 6 . Pháp trị cho rằng việc trị nước không có cái nguyên tắc bất biến. Xét trong bối cảnh đương thời, khi tư tưởng Đức trị đã trở thành chính thống và việc theo gương các vua nhân đức đời xưa trở thành mẫu mực của đạo trị nước thì quan điểm trên đây của Pháp trị thực sự mang tính cách mạng và đột phá cao.
Ngoài ra, các nhà Pháp trị còn cho rằng, pháp luật phải chiều theo tập quán của dân chúng, " thánh nhân cai trị thì xem phong tục của thời đại thì pháp luật không đứng được, mà dân loạn " 7 . Tư tưởng này thể hiện cái khôn ngoan của kẻ cai trị: dùng sức mạnh của tập quán để củng cố sức mạnh cho pháp luật và cũng chính tập quán là chất xúc tác quan trọng để pháp luật phát huy vai trò trong cuộc sống. Tuy nhiên, Hàn Phi cũng không cứng nhắc trong vấn đề này. Theo ông, việc pháp luật thay đổi hay không đổi không phụ thuộc vào vấn đề cổ hay kim, cũ hay mới mà cái chính là ở chỗ việc đó có hợp thời hay không: Thánh nhân không nhất định phải theo cổ, giữ cựu lệ mà phải xét việc đương thời rồi tuỳ nghi tìm biện pháp 8 : Điều đó cho thấy, trong quan điểm của các nhà Pháp trị luôn thống nhất giữa tính nguyên tắc với sự linh hoạt cần thiết của tư duy biện chứng sâu sắc.
Đây là quan điểm duy vật lịch sử mà cách đây trên 2000 năm các nhà pháp trị bằng tư duy trực quan mách bảo đã tiếp cận được, thực sự là quan điểm tiến bộ, rất duy vật mà cũng rất biện chứng khi xem xét vấn đề pháp luật và coi đây là cơ sở lý luận, là xuất phát điểm khoa học quan trọng của học thuyết này. Xét trên phương diện nhất định, quan điểm này phần nào " gần " với quan điểm của các nhà Mác xít sau này khi cho rằng, pháp luật là một hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc, phản ánh hạ tầng cơ sở của xã hội, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì thượng tầng kiến trúc phải thay đổi theo, " pháp luật không cao hơn cũng không thấp hơn trình độ phát triển kinh tế- xã hội " (Mác). Yêu cầu đối với pháp luật là phải phản ánh phù hợp với thực trạng kinh tế- xã hội.
Trên quan điểm đó, các nhà pháp trị đã đả phá kịch liệt quan điểm cổ hủ của Nho gia luôn miệng "kính tiên thiên " cho rằng đời sau không bằng đời trước. Tiếc thay, đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã thống trị ở Châu Âu và quay sang thôn tính phương Đông, giai cấp phong kiến Trung Quốc và Việt Nam vẫn không tỉnh ngộ, nhìn thẳng vào thực tại đất nước mà vẫn khư khư chủ trương " pháp tiên vương " và cho Tây phương- những kẻ có súng ống, tàu đồng là " man di ", để rồi nhanh chóng chuốc lấy thất bại.
Trong xây dựng pháp luật thực định, Pháp trị chủ trương pháp luật phải đơn giản, dễ hiểu. Phải soạn thảo cho dân dễ biết, dễ thi hành. " Pháp luật không gì bằng thống nhất và ổn cố, khiến cho dân biết được " 9 . Từ chức năng là khuôn mẫu xử sự chung nên pháp luật trong bản chất tự nhiên đã mang tính công bằng, trở thành đại biểu của công lý. Theo Hàn Phi, pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ yếu, số ít, như vậy mới tạo nên trật tự trong nước: "... trị nước thì mình định pháp luật, đặt ra hình phạt nghiêm khắc để cứu loạn cho dân chúng, trừ hoạ cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đáp số ít, người già được hưởng hết tuổi trời, bọn trẻ con được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù, đó cũng là cái công cực lớn vậy " 10 . Pháp luật được quan niệm như là mẫu số chung để điều chỉnh các mối quan hệ khác nhau trong xã hội quy về một trật tự thống nhất theo ý chí của giai cấp thống trị.
Công bằng phải được thiết lập trên cơ sở mọi người đều bình đẳng trước pháp luật- là điểm tiến bộ của pháp trị so với chủ trương phân biệt đẳng cấp " lễ bất há thứ dân, hình bất thướng đại phu " của đức trị (lễ không dành cho dân đen, hình phạt không dùng cho người trên), thể hiện bước phát triển lớn trong quan niệm về dân chủ của phương Đông. Tuy nhiên, do xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị nên nội hàm của khái niệm công bằng theo Hàn Phi còn phiến diện và khác xa so với hiện nay bởi đó mới chỉ là quy định công bằng trong phục tùng nghĩa vụ giữa các thành viên trong xã hội, (còn công bằng về quyền lợi chưa được đề cập đến). Do vậy mà pháp luật chỉ được chú trọng đến quyền lợi của Nhà nước mà xem nhẹ quyền lợi của người dân và các biện pháp chế tài cũng thường tuyệt đối hoá mặt trừng trị mà chưa nhìn thấy một chức năng không kém phần quan trọng của pháp luật là giáo dục.
Những quan điểm về ban hành pháp luật của Pháp trị như trên về cơ bản vẫn phù hợp và giữ nguyên giá trị trong xây dựng pháp luật hiện đại. Đến nay, yêu cầu về ban hành văn bản pháp luật vẫn phải là chính xác, đơn giản, dễ hiểu, chặt chẽ, phổ thông. Xưa và nay với khoảng cách của trên 2 thiên niên kỷ song tư tưởng của Hàn Phi vẫn đang sống với thực tại của chúng ta chứ chưa phải đã lùi về quá khứ.
3. Pháp luật phải được thi hành triệt để
Việc ban hành pháp luật mới chỉ đáp ứng về điều kiện cần để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Điều quan trọng hơn là những quy định pháp luật đó được tổ chức thực hiện trong cuộc sống để trở thành pháp luật trên thực tế và mới đáp ứng được yêu cầu của chính trị. Thống nhất giữa pháp luật và pháp chế luôn là một đòi hỏi khách quan trong xây dựng và thực thi pháp luật. Nhận thức rõ điều này, Hàn Phi không chỉ coi trọng việc xây dựng pháp luật trên cơ sở khoa học mà còn đòi hỏi nó phải được thực thi một cách triệt để: trong xã hội từ trên xuống dưới, từ vua quan cho đến thần dân đều phải tuân thủ nghiêm minh.
Tính nghiêm minh của pháp luật được thể hiện trước hết ở việc thưởng phạt. Nhà vua không được tuỳ tiện mà phải theo đúng phép nước chí công vô tư " dùng pháp luật để trị nước là để khen đúng người phải, trách đúng kể quấy... trị tội thì không chừa các quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót các dân thường " và " nếu quả thật có công thì dù là kẻ không thân mà hèn mọn cũng thưởng, nếu quả thật có tội thì dù là kẻ thân ái cũng phạt " " không tránh người thân và đại thần, thi hành với cả người mình yêu "... Những quan điểm đó cho thấy việc thi hành pháp luật của Hàn Phi là hết sức triệt để, không có chỗ cho những tình cảm cá nhân, hay địa vị, tư lợi mà chỉ dành cho phép công duy nhất. Chủ trương của Pháp trị là đề cao tuyệt đối pháp luật, vứt bỏ hết thi- thư- lễ- nhạc là những cơ sở giáo hoá của đức trị để đưa mọi người vào một khuôn khổ duy nhất là luật pháp. Thậm chí, giữa vua- tôi cũng không cần bày tỏ tình cảm kính trọng, thân ái mà chỉ cần làm theo đúng pháp luật. Với các nhà pháp trị, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng và thực sự là thứ đạo đức không có tình cảm.
Với vua là người đề ra và nắm pháp luật trong tay, cũng là người cao nhất có quyền thực thi pháp luật, hơn ai hết Vua phải gương mẫu tự đưa mình vào khuôn khổ trong thi hành pháp luật. Bậc minh quân phải là người có tinh thần thượng tôn pháp luật và bắt các quan lại thi hành luật pháp một cách đúng đắn: "Người thi hành pháp luật mà cương cường thì nước mạnh, người thi hành pháp mà nhu nhược thì nước yếu" 11 .
Vai trò và sự sáng suốt của vua là yếu tố tiên quyết đảm bảo cho việc thực thi pháp luật có hiệu quả. Muốn vậy, vua phải gạt bỏ hoàn toàn những riêng tư để chỉ tuân theo pháp luật: " nhà cầm quyền nào biết từ bỏ tư lợi tà tâm mà theo phép công (tức pháp luật) thì dân sẽ yên, nước sẽ trị; biết từ bỏ hành động riêng tư mà làm theo phép công thì binh sẽ mạnh, địch sẽ yếu " 12 . Ở đây, Hàn Phi đã nhận thấy ý muốn cá nhân là cội nguồn của tình trạng vô pháp luật và ông cảnh báo nguy cơ: khi pháp luật bị xem thường và đặt dưới ý chí chủ quan của người cầm quyền là lúc xảy ra tai hoạ của sự suy vong. Như vậy, trong khi Đức trị chủ trương vua nêu gương nhân đức, Pháp trị lại chủ trương vua nêu gương tuân thủ pháp luật.
Pháp luật là vũ khí sắc bén để bảo vệ uy thế của vua. Vì vậy, vua phải sử dụng pháp luật một cách hữu hiệu bằng việc nắm trong tay các quyền thưởng phạt để chế ngự bề tôi, yêu cầu việc thưởng phạt phải xác thực, đúng người và đích đáng mới phát huy hiệu quả của pháp luật. " Phạt tội một kẻ mà ngăn cấm được mọi sự gian tà trong nước (...). Kẻ bị phạt nặng là kẻ cướp, kẻ sợ hãi là lương dân " 13 .
Đây là quan điểm dùng hình phạt để bỏ hình phạt (hình dĩ khử hình) của Pháp trị, trái ngược với Nho giáo là bãi bỏ hình phạt để không còn hình phạt nữa (hình bất hình). Ở đây, các nhà pháp trị đã tiếp cận đến nguyên tắc kết hợp giữa giáo dục với trừng phạt; hình phạt là để răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tư tưởng này khác xa so với tư tưởng của Phương Tây cổ đại (mà tiêu biểu là Bộ luật La Mã), trong đó quy định nguyên tắc trừng phạt mang tính trả thù ngang bằng máy móc và thô thiển. Chẳng hạn, có những quy định nếu ai đó phạm phải một trong các tội như: giết người, đánh người bị thương hay làm gãy tay mù mắt người khác... thì người đó phải chịu sự trừng phạt tương ứng. Đáng buồn hơn "... quy tắc trả thù đó tồn tại suốt lịch sử tiến triển của pháp luật: nó xuất hiện trong luật báo thù (Lex talionis) của La Mã; nó đóng vai trò quan trọng trong bộ luật của Hamourabi, trong luật của Moixse "dĩ oán báo oán ", và người ta có thể dễ dàng nhận ra nó ở phía sau nhiều điều lệ trong các bộ luật hiện hành 14 ...
Ở đây, tư tưởng phương Đông đã thể hiện tầm cao hơn hẳn phương Tây, vượt qua những giới hạn nhận thức hạn hẹp và cụ thể để vươn đến mục tiêu xa hơn là đáp ứng những yêu cầu về chính trị, phản ánh ưu thế của một tư duy duy vật biện chứng với một bên là tư duy siêu hình máy móc.
Ngoài ra, đề cập đến việc thi hành pháp luật, Hàn Phi cho rằng, phải phổ biến pháp luật (trái với Thuật được dùng bí mật) để không một người dân nào có thể viện cớ rằng mình không biết pháp luật nên lỡ phạm pháp. " Pháp luật là cái chép trong sách vở, bày ở công sở và công bố cho toàn dân... pháp luật không gì bằng phải bày ra cho mọi người biết mà Thuật thì không muốn cho người khác thấy. Bậc minh chủ nói đến pháp luật thì hết thảy những kẻ ty tiện đều được nghe biết " 15 .
Quan điểm này trái ngược với các nhà đức trị là luôn chủ trương không phổ biến pháp luật nhưng thể hiện tính hợp lý ở chỗ: việc phổ biến, tuyên truyền là bước đi đầu tiên trong tổ chức thực thi, bảo đảm cho pháp luật đi vào cuộc sống với mục đích cuối cùng làm cho ý chí của giai cấp thống trị trở thành hiện thực trong thực tế đời sống xã hội.
Trên quan điểm duy vật lịch sử, học thuyết pháp trị đã phản ánh đúng quy luật vận động của lịch sử, trở thành đại biểu cho tiếng nói của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên thay thế địa vị giai cấp quý tộc chủ nô trong xã hội Trung Quốc cổ đại. Mang lập trường của giai cấp tiến bộ đương thời, các nhà pháp trị đã tìm thấy vai trò vô cùng quan trọng của pháp luật trong việc duy trì, bảo vệ quyền lực thống trị, coi đó là vũ khí đặc biệt trong việc quản lý xã hội, nhờ đó, giai cấp thống trị (mà nhà Tần là đại biểu) tạo được sự thống nhất bên trong để có điều kiện đối phó với tình hình bên ngoài (tranh bá giữa các nước) để hoàn thành sứ mệnh lịch sử: lần đầu tiên đưa sự nghiệp thống nhất Trung Quốc đến thắng lợi.
Pháp trị ra đời đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Tuy nhiên, do đã thủ tiêu những giá trị nhân đạo, nhân văn là hạt nhân tích cực trong nội dung các học thuyết "Đức trị ", " Kiêm ái "... nên ở phương diện này Pháp trị lại phản ánh một bước lùi lịch sử. Như một đứa con yêu có công lao lớn nhưng cũng mang nhiều lỗi tật, tuy được giai cấp phong kiến sau này thực sự cưng chiều nhưng đành phải che giấu mặt tàn ác (cái tật) của nó dưới hình thức vỏ bọc " Dương Nho âm Pháp ".
Pháp trị đã xuất hiện trong lịch sử như một vì sao sáng chói rồi sau đó phải khuất chìm sau ánh sáng của Đức trị. Tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ quản lý nhà nước và xã hội, cũng như những quan điểm và nguyên tắc pháp lý như trên của Pháp trị thực sự là tiến bộ lịch sử, trở thành niềm tự hào và là nét đặc sắc của tư tưởng phương Đông mà mãi sau này đến thế kỷ Khai sáng phương Tây mới tiếp cận và vượt lên bởi các tên tuổi John Lock, JJ. Rut-Xo, Mongtexkiơ... phát triển tư tưởng về nhà nước và pháp luật lên đỉnh cao bởi các học thuyết "tam quyền phân lập", "nhà nước pháp quyền"...
Hai tư tưởng cách nhau trên một ngàn năm song bước nhảy của phương Tây so với phương Đông chỉ trong một khoảng ngắn ngủi: Pháp trị đề cao pháp luật, yêu cầu mọi người phải tuân thủ pháp luật, chỉ chừa đặc quyền cao nhất cho một người được đứng trên là nhà vua (do hạn chế của thời đại). Còn phương Tây chủ trương tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Sự thay đổi từ công thức (n - 1) đến (n), tuy rất nhỏ nhưng thực sự là kết quả đấu tranh gian khổ và lâu dài của nhân loại, đánh dấu một bước ngoặt mang tính thời đại.
Học thuyết pháp trị do phản ánh đúng quy luật khách quan nên đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì một yêu cầu quan trọng là phải xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, tạo môi trường pháp lý ổn định cho phát triển kinh tế- xã hội. Qua thực tiễn hơn mười năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận trong hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật, trên thực tế cũng xuất hiện tình trạng chồng chéo, khủng hoảng thiếu hay thừa về luật trong một số lĩnh vực. Pháp luật của chúng ta lại thiếu tính ổn định và sự cụ thể chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn thấp dẫn đến việc coi thường trong chấp hành hoặc áp dụng pháp luật tuỳ tiện... là những nguyên nhân của kỷ cương phép nước không nghiêm. Những hạt nhân tiến bộ của Học thuyết pháp trị chắc chắn sẽ cho chúng ta nhiều suy nghĩ trong công tác xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật hiện nay./.
1. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi: Hàn Phi Tử, NXB Văn Hoá, tr.273.
2. Nguyễn Ngọc Huy: Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ thời, NXB Cấp Tiến, tr.215.
3. Lê Văn Được: Thuật trị nước của người xưa, NXB TP Hồ Chí Minh, Tr. 161.
4. Nguyễn Ngọc Huy- Sđd, tr.219.
5. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr.232.
6. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr.276.
7. Nguyễn Ngọc Huy- Sđd, tr. 215.
8. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr.153.154.
9. Nguyễn Ngọc Huy- Sđd, tr.216.
10. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr.279.
11. Nguyễn HIến Lê- Giản Chi- Sđd, tr. 284.
12. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr. 284.
13. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr. 262.
14. Will Durant- Nguồn gốc văn minh (Nguyễn Hiến Lê dịch), tr.56.
15. Nguyễn Hiến Lê- Giản Chi- Sđd, tr. 282.
THS. ĐỖ ĐỨC MINH
Khoa Chính trị học- Phân viện Chính trị quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Học thuyết nhà nước pháp quyền – Một số vấn đề trong việc hình thành và phát triễn, TS.KH Lê Cảm. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 10/2002.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ    TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ  Empty

Về Đầu Trang Go down
 
TƯ TƯỞNG PHÁP GIA – HỌC THUYẾT CỦA TRÍ BÌNH THIÊN HẠ
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
»  Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi
» Đạo Giáo Giáo Phái
» Nghiên cứu về binh pháp Tôn Tử
» Cung nghinh tôn tượng Ngũ Trí Như Lai quang lâm Đại Bảo Tháp Tây Thiên 20/10/2013
» TINH HOA CỦA ĐẠO PHẬT LÀ PHÁP MÔN THIỀN TÔNG

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Các Đạo Khác :: Gương Xưa Tích Cũ-
Chuyển đến