Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  Luận Anh Hùng Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 Luận Anh Hùng

Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyWed Jul 02, 2014 3:18 pm

LUẬN ANH HÙNG

DỊCH TRUNG THIÊN

Người Dịch: Vũ Ngọc Quỳnh

HẠNG VŨ
- 1 -


Quý tộc và lưu manh

Cuối cùng thì Hạng Vũ đã bị đánh bại, bại trong tay Lưu Bang.

Thắng làm vua thua làm giặc. Lưu Bang thắng trận khác gì chó mèo lên làm hoàng đế, Hạng Vũ bại trận đành tự nhận là đen đủi, không những không thành bá vương mà còn phải đi gặp Diêm vương.


Thực thê thảm và vô cùng uất ức.


Nghĩ lại thì thất bại cũng chẳng phải là điều gì đáng sợ đến nhường ấy! “Thất bại vốn là chuyện thường của nhà binh!”. Vả lại, đời người xưa nay ai mà chẳng phải chết? Chết đã chẳng tiếc thì bại có gì nhục. Có điều, bại không bởi người khác, mà bại trong tay Lưu Bang, quả là khó hiểu.

Sao Hạng Vũ lại bại bởi Lưu Bang? Hạng Vũ là anh hùng, Lưu Bang là lưu manh. Thân phận Hạng Vũ rất cao quý. Gia tộc của Vũ được coi là “danh tộc” thời đó. Năm 209 trước Công nguyên (năm thứ nhất niên hiệu Tần Nhị Thế), Trần Thắng khởi nghĩa, thiên hạ nơi nơi hưởng ứng, người người giương cao cờ, giáo, ùn ùn kéo tới. Nhân dân Đông Dương (huyện Thiên Trường, tỉnh An Huy ngày nay) giết huyện lệnh, muốn lập Trần Anh làm vương, Trần Anh lại có ý chạy sang với họ Hạng. Họ Trần nói: “Ta dựa vào danh tộc, Tần tất bị diệt”. Trần Anh không dám làm vương, chủ yếu là vì nhát gan, sợ phải xuất đầu lộ diện. Nhưng điều Trần Anh nói là thực, họ Hạng là danh tộc, uy vọng cao, sức hiệu triệu mạnh. Đúng là họ Hạng có một số điểm hơn người. Sử sách còn ghi, Hạng vốn là nước phong họ Cát, đời sau của hoàng đế thời Tây Chu, đất này nay là huyện Hạng Thành, tỉnh Hà Nam. Vào thời Xuân Thu, nước Lỗ diệt nước Hạng, về sau Sở lại diệt Lỗ phong đất Hạng cho tổ tiên Hạng Vũ, từ đó họ Hạng ra đời. Vì vậy, tổ tiên Hạng Vũ ở Hạng Thành, Hà Nam, Viên Thế Khải, nhân vật nổi tiếng cuối triều Thanh đầu thời kỳ Dân Quốc là đồng hương.

Họ Hạng được phong đất Hạng Thành, đời đời làm tướng của nước Sở. Đến thời ông nội Hạng Vũ là Hạng Yên, vận nhà sa sút nhiều. Năm 224 trước Công Nguyên, tức là năm thứ hai mươi ba thời Tần Thuỷ Hoàng, tướng Tần là Vương Giản tiến đánh nước Sở, bắt sống Sở vương, Hạng Yên đành làm tướng của triều đình lưu vong, khởi binh phản Tần ở Hoài Nam, kết quả binh bại thân vong. Hạng Vũ ra đời ở Hạ Tương, tức huyện Túc Thiên tỉnh Giang Tô ngày nay. Sau này theo chú là Hạng Lương trốn đến Ngô Trung, tức huyện Ngô, Giang Tô. Vì vậy Hạng Vũ là người Giang Tô, coi như cùng quê với Lưu Bang, người huyện Bái.

Nhớ lại thuở nhỏ Hạng Vũ đã sống cuộc sống của quý tộc sa sút. Có điều, sa sút nhưng vẫn là quý tộc. Vì vậy Hạng Vũ là người có tên có tự rõ ràng: Tên Tịch, tự Vũ và Tử Vũ. Lệ thường của con cái quý tộc thời đó là vậỵ. Sau khi sinh được ba tháng đứa trẻ được chọn ngày lành để cắt tóc, cha đặt tên cho, con trai năm hai mươi tuổi, con gái năm mười lăm tuổi, được làm lễ đội mũ hoặc cài trâm, quan khách đặt tên. Có tên là được sinh, có tự là đã thành người, người có quyền lợi, có nghĩa vụ. Con em quý tộc mới được như vậy, con em bình dân thì không). Ngoài ra, người có tự còn được tôn trọng, con em bình dân luôn bị xem thường. Hạng Vũ có tên có tự, mới là con quý tộc, được làm lễ đội mũ, được xã hội xem trọng.

Tổ tiên Lưu Bang là ông già họ Lưu, chẳng hiển hách gì. Lưu, tuy cũng là nước cổ có họ là Cơ (nay là xã Yển Sư huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam), người dựng nước là Lưu Khang công, con của Chu Khuông vương, nhưng đến thời của Chu Trinh Định vương thì hết phong, lập nước được hơn trăm năm, họ với Lưu Bang nối tám cây sào cũng chẳng tới. Cha mẹ Lưu Bang vừa không phải trọng thần của triều đình, cũng chẳng hiển đạt gì trong xã hội, nhiều khả năng tên cũng chẳng có. Sách Sử kỷ nói, Lưu Bang có “cha là Thái công, mẹ là Lưu Ôn”, dịch thành tiếng Hán hiện đại là ông Lưu, bà Lưu. Ông Lưu, bà Lưu đương nhiên không phải là tên, rõ ràng họ là “loại vô danh”.

Bản thân Lưu Bang vốn cũng không có tên. Sử sách nói Lưu Bang: “Lúc nhỏ gọi là Quý, lên ngôi mới đổi tên Bang”, rõ ràng “Bang” là tên thêm sau khi đã nổi tiếng. Còn như “Quý”, không phải là tự mà là chỉ thứ tự. Người Trung Quốc xưa nói theo thứ tự: bá, trọng, thúc, quý. Bá là thằng cả, trọng là thằng hai, thúc là thằng ba, quý là thằng tư. Anh cả của Lưu Bang là Bá, anh hai là Trọng, không nghe nói có Lưu Thúc là anh ba, vậy “Lưu Quý” có thể là anh ba anh tư gì đó, có phần “không ra thể thống. Hoặc gọi thẳng là Lưu tiểu, giống như gọi đứa trẻ chăn trâu là Vương Nhị Tiểu” vậy!

Việc sinh Lưu Bang cũng rất đáng nghi. Sử ký nói, một lần, bà Lưu nằm ngủ bên hồ, trong mơ có gặp một vị thần. Khi đó sấm vang chớp rền, trời đất mù mịt. Ông Lưu chạy đến xem, thấy có rồng đang cuộn trên người vợ. Về tới nhà thì bà Lưu mang thai và sinh ra Lưu Bang. Đây chính là thủ đoạn bọn đế vương lập nước thường dùng, mục đích để chứng minh, mệnh của mình liên can tới trời, thần trao cho quỵền làm vua, xứng là “chân mệnh thiên tử”. Từ xưa đã có người chơi trò này, như Hữu Tể nuốt cây bo bo để sinh ra Hạ Vũ. Giản Địch nuốt trứng én sinh ra Thương Khiết, Khương Nguyên giẫm vào vết chân người khổng lồ sinh ra Chu Tắc… đều là dựng chuyện “dã hợp”, thần thánh hoá tổ tiên ba đời nhà Hạ, Thương, Chu, tôi đã vạch rõ điều này trong cuốn Đàn ông và đàn bà Trung Quốc. Nếu có hứng thú, các vị hãy tìm đọc cuốn đó.

Thánh hiền xưa đã làm điều đó, đời sau hẳn sẽ chẳng ngại làm theo, dù sao cũng chẳng có kẻ nào ngờ nghệch đến mức nghiên cứu để chứng thực. Nhưng không bốc phét thì vẫn hơn. Một khi đã bốc phét thì sẽ lộ dấu vết, bởi thế mới có người ngờ rằng, thằng nhóc nhà bà Lưu hẳn là đứa “con hoang”. Sử ký nói tướng mạo Lưu Bang thật kỳ lạ: “sống mũi cao, dáng mặt rồng”, để chứng minh Lưu Bang là “rồng thực”, nhưng ngược lại, thấy rõ Lưu Bang khác hẳn với cha, anh! Giống ai vậy? Chỉ có ông Lưu là biết rõ điều này. Vậy ông Lưu đã thấy những gì năm đó, dám khẳng định đó không phải là “rồng”. Sử liệu chứng minh, ông Lưu chẳng thích thú chút nào với chú nhóc lai lịch không rõ ràng này và cũng chưa bao giờ coi đó là “giống rồng”, thường mắng nó là đồ “vô lại”. Nếu như ông Lưu đã thấy rồng thật, thì e là đã không có thái độ đó.

Đã không coi Lưu Bang là con của mình nên ông Lưu không mấy quan tâm, giáo dục Lưu Bang không hết trách nhiệm. Ngoài việc mắng Lưu Bang là đồ “vô lại”, không chăm chỉ bằng Lưu Nhị ra, những việc khác, ông Lưu không quan tâm. Thế là từ bé, Lưu Bang đã tham ăn biếng làm, du thủ du thực, phung phí tiền bạc của cả nhà, ngay như Thái sử đương triều, khi nói tới Lưu Bang đã phải thừa nhận, đây là kẻ “thích rượu thích gái”, “không lao động sản xuất như mọi người”. Suốt ngày lêu lổng khắp nơi, hoặc cùng lũ bạn gái trai chẳng ra gì, ăn ăn uống uống, chòng ghẹo tình tứ, hệt một lũ lưu manh côn đồ. Về sau, Lưu Bang cũng kiếm được chân công sai “đinh trưởng Tứ Thuỷ”. Nhà Tần có chế độ, mười dặm là đinh, mười đinh là hương, đinh trương cao hơn thôn trưởng nửa bậc, thấp hơn hương trưởng nửa bậc, tương đương một cán bộ cơ sở, một đại đội trưởng sản xuất công xã, hơn nữa mới chỉ được “thử việc”. Chức vụ này không phải là quan, là kẻ giúp việc, gọi là lại thậm chí là tiêu lại, quyền ít việc nhiều, lợi ít phiền nhiều. Con em nhà có sĩ diện đều không làm, con em nhà nông thực thà chất phác cũng không muốn làm, thích hợp nhất với nó là Lưu Bang, một kẻ lưu manh côn đồ. Sau khi làm đinh trưởng, ngoài việc phát minh ra chiếc mũ làm bằng cật tre, đội vào lấy oai, Lưu Bang chẳng có dáng vẻ gì của quan lại, vẫn với bộ mặt nhăn nhở cười cợt, rượu chè trai gái, vẫn cứ uống rượu ghi nợ ở các quán cơm. Bà Lưu luôn đau lòng về thằng con của mình, cứ phải đi trả nợ, trả gấp bội tiền rượu cho con. Từ đây, trong làng ngoài xóm, Lưu Bang được coi là “vui vẻ độ lượng”, được một số người quý mến.

Vì vậy, ít nhiều Lưu Bang cũng có điểm tương đồng với Hạng Vũ. Lúc nhỏ, Hạng Vũ và Lưu Bang đều không phải là những đứa trẻ ngoan biết vâng lời, giữ phép tắc. Điều khác biệt là ở chỗ: Hạng Vũ con nhà quyền quý, Lưu Bang là kẻ côn đồ. Sử ký nói, Hạng Vũ “học tập không thành, đi học kiếm cũng không thành”. Hạng Lương là chú Hạng Vũ, lấy làm phiền muộn, bởi quý tộc rất coi trọng việc giáo dục con cái. Hạng Vũ nói, học chữ là để ghi chép tên tuổi người khác, có tác dụng gì đâu? Học kiếm cũng chỉ thắng được một vài người, không đáng phải học. Muốn học, phải học thứ chiến thắng được ngàn vạn người. Hạng Lương nghe thấy có lý, liền cho Hạng Vũ học binh pháp. Hạng Vũ mừng rỡ vô cùng, có điều bởi không chăm chỉ, không đào sâu suy nghĩ. Thế là, ngay cả binh pháp, Hạng Vũ cũng chưa học xong.

Mọi chuyện trên đời đều như vậy cả. Một người sau khi trở thành nhân vật tiếng tăm, thì ưu điểm thuở nhỏ của họ, đương nhiên vẫn là ưu điểm, nhưng khuyết điểm của họ thường cũng biến thành ưu điểm. Lưu Bang, Hạng Vũ đều không thích học hành, nhược điểm này tự nhiên biến thành biểu hiện của người “ôm ấp chí lớn”. Đúng vậy, học thuật, học vấn chỉ là thuật, không phải là đường. Đường không phải do học mà có. Người có học vấn nhiều đến mấy cũng chỉ có thể làm quan. Người có đường, tuy học vấn ít, cũng có thể làm vua thiên hạ. Nói ngay như Trần Thắng, học vấn có được là bao? Nhưng lại có “chí của chim hồng chim hộc”, nên mới có lời kêu gọi “vương, hầu, tướng quân, thừa tướng, há phải có dòng dõi mới làm nên sao?”. Trong lịch sử đã có học giả nào nói được câu đó? Chưa. Kẻ có học vấn đều không dám tạo phản. Kẻ dám tạo phản, nếu có chút chữ nghĩa, thì cùng lắm cũng chỉ là “anh tú tài thi trượt”. “Tro bụi chưa tan Sơn Đông đã loạn, Lưu, Hạng vốn ít học hành”. Câu nói này rất hay.

Vì vậy, Lưu Bang, Hạng Vũ tuy là người ít học, nhưng lại có ý nghĩ như Trần Thắng. Lúc Tần Thuỷ Hoàng du ngoạn ở núi Cối Kê, Hạng Lương cho Hạng Vũ đi xem, ai ngờ Hạng Vũ vừa nhìn đã thốt thành lời: “Có thể cướp ngôi và thay thế hắn!”. Hạng Lương sợ quá, vội đưa tay bịt miệng Hạng Vũ. Một lần Lưu Bang đi công cán ngang qua Hàm Dương, nhìn thấy cảnh bài trí của Tần Thuỷ Hoàng, từng đã thở dài nói: “Ôi! Đại trượng phu phải nên như thế chứ! “Lúc này nghĩ lại mới thấy, bấy giờ tư tưởng những người thực “thoáng” mới có thể thốt ra những lời đáng bị chặt đầu đó. Đương nhiên, Hạng Vũ đã thốt thành lời, Lưu Bang thì suy nghĩ và láng báng trong miệng (qua đây, thấy rõ Hạng Vũ anh hùng hơn Lưu Bang). Dám nghĩ như vậy, thực chẳng dễ dàng gì. Có thể là trước khi xây dựng thể chế chuyên chính của tập đoàn trung ương, người người đã suy nghĩ nhiều về điều đó. Hơn nữa, đã trải qua nhiều năm kẻ chiếm người đoạt, chính Tần Thuỷ Hoàng cũng đã cướp giang sơn người khác. Vậy, lẽ nào hoà thượng sờ được, tôi lại không sờ được? Doanh Chính, ngài có được ngôi vị hoàng đế, lẽ nào Lưu Bang, Hạng Vũ, chúng tôi lại không được có? Rõ ràng, vấn đề là có làm được hay không, còn chỉ nghĩ muốn làm hoàng đế thì không thành vấn đề. Vì vậy sau này khi Lưu Bang đã lên làm hoàng đế, Khoái Thông mới nói: “Lúc đó số người mài dao muốn lên ngôi như bệ hạ nhiều vô kể! Lưu Bang nghe xong rồi cười, biết Khoái Thông nói đúng sự thực”.

Có điều, nếu cân nhắc kỹ những lời nói của Lưu Bang, Hạng Vũ, Trần Thắng, sẽ thấy có những ý khác nhau. “Vương, hầu, tướng quân, thừa tướng, há phải có dòng dõi mới làm nên sao”, đầy tính khiêu chiến, mà đối tượng khiêu chiến không chỉ có vương triều Tần, còn có số mệnh. Câu nói mang tinh thần không an phận, không tin ở ma quỷ, vì thế được đánh giá cao nhất trong ba thuyết. Ngày nay đọc đến câu “Tráng sĩ không chết thì thôi, có chết thì cũng tiếng tăm lùng lẫy chứ”, trong lòng chúng ta vẫn thấy rất kính trọng. Một người mượn lời Giả Nghị nói: “Con nhà khố rách áo ôm, là dân manh lệ, đồ vong gia thất thố” có thể nói ra những lời thực phi phàm, đáng để mọi người phải kính phục. Trần Thắng thất bại vì quá thiếu văn hoá, đứng trước một thắng lợi quá đột ngột, hoàn toàn không biết phải làm gì, tự cho là vận mệnh may mắn, mà không hiểu rằng, để có được một thắng lợi cuối cùng thực sự không phải dễ. Kết quả là, làm vua được sáu tháng thì đầu lìa khỏi cổ, thất bại thảm hại, đúng là “hưng vượng rất nhanh, suy tàn rất chóng”. Nhưng người ấy trước số phận bất công, đã vùng lên quyết đấu, thực giống như một ngôi sao băng lướt qua bầu trời sáng loáng. Tuy là ngắn ngủi nhưng thật huỵ hoàng.

Lời Hạng Vũ thực khí khái, anh hùng, nói dứt khoát rõ ràng: “Có thể cướp ngôi và thay thế hắn!”, khẩu khí giống như đang lấy một vật gì ở trong túi. Trong con mắt Hạng Vũ “Thuỷ Hoàng đế” thống nhất toàn Trung Quốc kia chẳng có gì là ghê gớm, chỉ đáng được gọi là “hắn”, có thể thay bất cứ lúc nào. Thực tự tin và cũng thực tự đại. Tự tin khiến Hạng; Vũ thành công, tự đại làm Hạng Vũ thất bại. Có thể thấy rõ, lúc nói câu đó, Hạng Vũ chẳng suy nghĩ gì, không tính đến hậu quả của nó! “Hắn” kia, sao có thể thay ngay được? Ngộ nhỡ thay không được thì làm sao? Có lẽ chưa nghĩ đến điều đó. Hạng Vũ chỉ nghĩ là thay thế hắn có thể làm được. Đây là điểm đáng yêu của Hạng Vũ và cũng là điều đáng buồn cho Hạng Vũ.

Lời của Lưu Bang không khí thế bằng, chỉ như một kẻ lưu manh nhổ một bãi nước bọt vào lũ quyền quý, giầu sang: “Ôi! Đại trượng phu phải như thế chứ”, nói khác đi là, người tài ba muốn sống là phải sống như vậy, nhưng không được như vậy thì làm sao? Có lẽ cũng chỉ thế mà thôi. Như vậy là không anh hùng một chút nào, nhưng lại rất thực tế, Lưu Bang từ nhỏ đến lớn, từ yếu thành mạnh, dần dần bước lên ngôi báu của hoàng đế. về góc độ thẩm mỹ, đương nhiên chúng ta tán thưởng Trần Thắng và Hạng Vũ, nhưng về thực tế, chúng ta không thể không thừa nhận Lưu Bang mới là kẻ thành công.

Đúng vậy, Lưu Bang theo chủ nghĩa thực dụng, Hạng Vũ lại là người theo cảm tính.

Ở phần sau chúng ta sẽ nói tỉ mỉ về chủ nghĩa thực dụng của Lưu Bang, nhưng hiện giờ thực ra không quá khó để nhận ra điều đó. Khi Lưu Bang nói câu: “Đại trượng phu phải như thế chứ”, mục đích đã rất rõ ràng, phải sống cuộc sống như Tần Thuỷ Hoàng, cho ra con người. Như thế nào là ra con người, cũng chưa thật rõ. Thực ra, cho đến lúc đã là hoàng đế, Lưu Bang vẫn chưa rõ hoàng đế là thế nào, phải sống ra sao. Thừa tướng Tiêu Hà cho xây cung Vị Ương, lập cửa Đông, cửa Bắc, xây kho vũ khí, kho thóc… Lưu Bang thấy vậy đã nổi nóng, nói: “Vì chiến tranh thiên hạ khổ sở nhiều năm, việc thành bại còn chưa rõ, sao lại xây dựng cung thất quá mức như vậy?”. Tận khi Tiêu Hà giải thích: “Thiên tử lấy bốn biển làm nhà, không huy hoàng tráng lệ thì lấy đâu ra uy vọng”, Lưu Bang nghe xong mới yên. Lại như ngày đầu mới được thiên hạ, cùng quần thần yến ẩm, Lưu Bang vẫn như trong quán rượu huyện Bái ngày nào. Mọi người luôn ầm ĩ, lúc say thì la hét đấm đá, chẳng ra thể thống gì cả. Tận khi Thúc Tôn Thông định ra lễ nghi, mỗi lần trong cung mở tiệc, từ chư hầu, vương trở xuống, người người đều phải nghiêm chỉnh, giữ lễ; Lưu Bang không giấu nổi vui mừng, mới nói: “Mẹ kiếp, đến hôm nay ông đây mới hiểu làm hoàng đế sướng thật! Rõ ràng là trước đây chưa hiểu gì”. Lời Lưu Bang trước đây, phải sống được như Tần Thuỷ Hoàng, chỉ là nói muốn sống thật xa hoa, giống như A.Q, lúc ngủ trong miếu Thổ Cốc đã “mơ thấy cách mạng thành công”, đều là sự thèm muốn được vinh hoa phú quý. Chỗ khác nhau là, cảnh tượng lớn nhất mà A. Q nhìn thấy chẳng qua là cảnh bày vẽ phô trương của cụ Triệu và ông Tiền, còn Lưu Bang đã nhìn thấy nghi trượng của hoàng đế, vì vậy mục tiêu của Lưu Bang cao hơn một chút.

Cái mà Hạng Vũ xem trọng lại không phải là vinh hoa phú quý, mà là sự nghiệp anh hùng. Có nghĩa là, Hạng Vũ không xem trọng kết quả (như thế) mà xem trọng quá trình (thay). Hạng Vũ không muốn sau thay sẽ thế nào, cũng không nghĩ xem sau khi thay sẽ thế nào, mà chỉ muốn thay. Đúng vậy, với một anh hùng chân chính thì thường chú ý tới việc chiến đấu hơn là thắng lợi. “Mã tư biên thảo quyền mao động, điêu phán thanh thiên thuỳ nhãn khai” (Dịch: Nhơ cơ biên ải, ngựa dựng lông. Ngẩng nhìn trời xanh, mắt mở trừng). Không một người anh hùng nào lại muốn bỏ phí cuộc đời trong sự nhàn rỗi. Đã có việc cần làm là làm ngay! Không kể đó là việc gì, cũng không hề nghĩ làm xong việc đó sẽ thế nào!

Đó là cách làm và lối suy nghĩ của những người hành động theo cảm tính.

Chuyện sau đây thể hiện rất rõ nhất tính cách này của Hạng Vũ. Trong thời khắc cuối cùng của sinh tử tồn vong, Hạng Vũ nhớ đến cái gì, nghĩ đến một mỹ nhân họ Ngu, nhớ đến con tuấn mã tên Chuy. Mọi người đều thuộc lầu câu chuyện Bá Vương biệt Cơ rất hay: Đêm đã về khuya, bốn mặt là bài ca nước Sở, trong trướng của nhà vua thắp lên một cây nến rất to, bên ngoài là những bó đuốc sáng loáng, vị anh hùng của chúng ta uống cạn chén rượu, rồi đứng dậy cất lên lời ca bi thảm: “Sức nhổ núi chừ, khí trùm đời. Thời vận không may chừ, Chuy không đi! Ngựa không đi chừ, làm sao được. Ngu Cơ ơi Ngu Cơ, biết làm sao?”. Câu cuối dịch ra là thế này: Tiểu Ngu ơi, Tiểu Ngu, ta biết làm gì với nàng đây? Một vị thống soái ba quân trải qua trăm trận, một vị anh hùng cái thế, uy trấn thiên hạ, điều đau lòng nhất lúc này không phải công lao, sự thành bại của mình, mà là tuấn mã và người đẹp yêu quý, chẳng có cách nào sắp xếp được. Hạng Vũ không hề nghĩ làm gì để chuyển bại thành thắng, chuyển nguy thành an, không hề nghĩ phải làm gì để thoát vòng vây, để nổi dậy lần nữa. Ngay từ đầu Hạng Vũ không để ý tới thắng lợi cuối cùng!

Thắng lợi hay không thực không quan trọng, quan trọng là bản thân chiến đấu. Sau khi thống lĩnh tám trăm kỵ binh phá vây và lạc đường ở Âm Lăng, Hạng Vũ dẫn quân về hướng đông, hòng quyết đấu trận cuối cùng với quân Hán. 



http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn2n3ntn4n31n343tq83a3q3m3237nvn  

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/


Được sửa bởi Tri Âm Quán ngày Fri Jul 04, 2014 1:47 pm; sửa lần 19.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyWed Jul 02, 2014 3:43 pm

Bên cạnh Hạng Vũ lúc này chỉ còn hai mươi tám kỵ binh, nhưng lòng quyết đấu của Hạng Vũ đã lên tới cực điểm. Hạng Vũ quyết định nói mấy lời cuối cùng với các tướng sĩ theo hầu. Từ ngày khởi binh tới nay đã tám năm, trải qua hơn bảy mươi trận, ai vây là phá, ai đến là đánh, ta chưa hề bại. Lần này, trời có thể muốn diệt ta! Tốt thôi, ta vì các vị sẽ đánh một trận cho ra trò, nhất định phải phá vỡ được một mặt, nhất định phải chém đầu tướng giặc, nhất định phải chặt gãy cột cờ của chúng, xem ta không biết đánh trận hay trời muốn diệt ta. Nói xong liền hô to, quân Hán, người ngựa kinh hồn bạt vía, tướng Hán lần lượt đầu lìa khỏi cổ. Hạng Vũ cười lớn, mãn nguyện, quay đầu nhìn lại, nói với tướng sĩ của mình: “Thế nào?”. Các tướng sĩ theo hầu đã bái lạy, quỳ xuống, đồng thanh nói: “Đúng như lời đại vương”.
Điều đó thực là trẻ con quá! Ai cũng rõ, trận đánh ở Cai Hạ là trận đánh cuối cùng của hai quân Hán Sở, cũng là trận mấu chốt quyết định thắng bại cuối cùng, là trận “quyết chiến” không ngưng nghỉ. Nhưng lúc này, bản thân thống soái Hạng Vũ không hề nghĩ tới quyết chiến, chỉ muốn tốc chiến. Nói như lời Hạng Vũ là: “Hôm nay ta quyết tử, nguyện cùng chư vị tốc chiến”. Ý muốn nói, đánh một trận thật thoải mái, đánh nhanh thắng nhanh, kết thúc sớm.
Đúng như lời Vương Bá Tường, tốc chiến khác với quyết chiến. Quyết chiến nghĩa là thắng bại khó phân, quyết phen sống mái, cũng có nghĩa là vẫn cầu thắng lợi. Tốc chiến là sự hứng khởi nhất thời, thể hiện sự dũng mãnh, không hề nghĩ đến hậu quả. Là thống soái thì nên chọn “quyết chiến” hay “tốc chiến” đây? Đương nhiên là cái trước, vì “thắng bại là chuyện thường của nhà binh”. Việc ngoài chiến trường biến đổi nhanh chóng, mới vào trận chưa ai biết ngay được kết quả, cứ đánh rồi sẽ biết. Vì vậy, dù quân đã ở dưới thành, địch mạnh ta yếu, trong lúc nguy cấp, cũng đừng mất hết hỵ vọng ở tháng lợi. Bởi vì, vẫn còn khả năng mở được đường máu. Binh pháp từng nói: “Để vào chỗ chết thì mới sống, rơi vào chỗ hiểm thì mới còn”. Theo đó, quân Sở vẫn còn khả năng lật ngược thế cờ, giành thắng lợi. Nhưng Hạng Vũ lại không nghĩ tới chuyện đánh tiếp. Cũng có thể qua hơn bảy mươi trận đánh, Hạng Vũ cũng đã mệt rồi. Cũng có thể, hơn bảy mươi trận bất bại, Hạng Vũ cảm thấy đã “đủ rốn” rồi. Đúng vậy, Hạng Vũ vốn không xem trọng ngôi vua và thiên hạ, chỉ mong được sống thật anh vũ hào hùng, thật thoải mái, có một kết cục tốt đẹp, sau đó rời bỏ chiến trường, từ giã cuộc đời.
Nếu đã như vậy, hãy để cho Hạng Vũ được toại nguyện đi!
Lưu Bang không ngốc như vậy.
Hạng Vũ luôn khải hoàn với nhiều thắng lợi thì ngược lại, Lưu Bang luôn gặp khó khăn. Đương nhiên, không phải Lưu Bang chưa từng thắng trận. Lưu Bang đã hạ thành Hàm Dương kinh đô nhà Tần, còn Tần Vương là Tử Anh đã phải xin hàng. Theo hẹn ước bấy giờ giữa Lưu Bang và Hạng Vũ, “Người vào Hàm Dương trước được là vương”, về lý, Lưu Bang đương nhiên là chủ thiên hạ, ít ra cũng là Quan Trung vương. Nhưng sự thể lại là Lưu Bang đành phải nhường lại Hàm Dương, mặc cho Hạng Vũ thiêu huỷ cướp bóc, nhẫn nhịn đi nhận chức Hán Trung vương. Rõ ràng trong thời buổi cá lớn nuốt cá bé, người có thực lực mới có quyền phát ngôn. Lưu Bang không mạnh bằng Hạng Vũ, tuy có “đạo nghĩa” (vào Quan Trung trước, diệt Tần nhận hàng, ba chương ước pháp, không phạm sai lầm), nhưng vẫn phải ngậm miệng.
Đúng vậy, nếu cân nhắc kỹ từng bên thì mặt nào Lưu Bang cũng không bằng Hạng Vũ. Không chỉ bối cảnh gia tộc khác nhau một trời một vực, mà ngay cả tố chất cá nhân cũng khác hẳn. Hạng Vũ “năng lực vượt trội, tài khí hơn người”, đánh thành thì thành bị phá, giết địch thì địch kinh hồn, Lưu Bang làm được những gì? Chỉ biết uống rượu và chơi gái. Trong suốt quá trình khởi binh diệt Tần, Hán Sở giao tranh, Lưu Bang không hề có một mưu kế nào, bản thân không hạ được một ngôi thành nào, không trực tiếp chỉ huy một trận đánh nào. Lưu Bang có mỗi một việc là hỏi bọn Trương Lương, Hàn Tín, Trần Bình “Làm thế nào đây?”. Có thể nói, so với Hạng Vũ, Lưu Bang chẳng có một chút khả năng nào. Chẳng trách từ trong thâm tâm, Hạng Vũ xem thường Lưu Bang: Loại này mà dám tranh giành thiên hạ với ta sao?
Ngay từ đầu, một phần là do vận khí và sự may mắn, Lưu Bang mới là lãnh tụ. Năm đầu thời Nhị Thế, Trần Thắng khởi nghĩa, chấn động thiên hạ. Hào kiệt khắp nơi nhất tề nổi dậy hưởng ứng, “quận huyện nhiều nơi đã giết trưởng lại, theo về Trần Thiệp”, cướp quận huyện, tự lập là mốt ở thời đó, huyện Bái của Lưu Bang không là ngoại lệ. Nhưng sau khi giết chết huyện lệnh huyện Bái, lập ai làm chủ còn là vấn đề. Xét về địa vị, tư cách, ý dân thì phải lập Tiêu Hà hoặc Tào Tham. Lúc đó, Tiêu Hà là cai ngục của huyện Bái, Tào Tham là chủ lại ở huyện Bái, là những người có địa vị, là quan viên hành chính có năng lực. Nhưng hai người đều là quan văn, có phần nhát gan, nghĩ rằng cầm đầu tạo phản không xong sẽ mắc tội chém đầu, diệt tộc, tốt nhất là nhường chức vụ ấy cho thằng nhóc họ Lưu, tên lưu manh côn đồ, bất chấp tất cả. Ngộ nhỡ có thất bại cũng chỉ mắc “tội a tòng” không phải “tội cầm đầu”. Với lý do đó, Lưu Bang mới làm Bái công.
Tưởng như đó là việc ngẫu nhiên nhưng thực chất là thế. Tát Mạnh Vũ từng nói, trong lịch sử Trung Quốc thường có hai loại người đoạt được đế vị: Một loại là hào tộc, như Dương Kiên, Lý Thế Dân; một loại là lưu manh, như Lưu Bang, Chu Nguyên Chương. Là văn nhân thì không có phần. Văn nhân thường không dám và cũng không có lực. Có tham gia khởi nghĩa tạo phản, cũng chỉ là theo rồng dựa phượng, đi theo bọn hào tộc hoặc lưu manh, làm quân sư, làm thuộc hạ, đề xuất ý kiến, bàn mưu tính kế, đương nhiên không thể làm lãnh tụ. Vì vậy thủ lĩnh hai bên Sở, Hán chỉ có thể là hào tộc Hạng Vũ và lưu manh Lưu Bang, không phải Tiêu Hà, Tào Tham, cũng không phải Phạm Tăng, Trương Lương.
Vì sao văn nhân không thể tạo phản? Vì tạo phản khởi nghĩa, tranh đoạt ngôi vị, nói trắng ra là chơi canh bạc lớn, phải là những kẻ có gan tày trời. Gan này có liên quan tới vốn liếng. Người có vốn liếng lớn, dám đánh cược, kẻ chẳng có thứ gì, cũng dám đánh cược. Hào tộc dám chơi vì vốn liếng lớn, không thể thua. Lưu manh dám chơi vì không có vốn, thua cũng chẳng sợ. Chẳng phải là thất bại thì không có quả ngon ăn ư? Tôi chưa bao giờ ăn quả ngon. Cứ làm, biết đâu sẽ được ăn vài quả, nào có mất gì? Truyện Thuỷ Hủ kể: Ngô Dụng vận động tam hùng họ Nguyễn tạo phản, Nguyễn Tiểu Thất liền nói: “Nếu có thể được dùng lấy một ngày, thì dẫu chết cũng nở mày nở mặt”. Vì vậy khi có cơ hội, những kẻ lưu manh, những người vô sản khác gì mớ cỏ khô có lửa là bùng lên ngay. Sợ gì mà không đi? Không đi thì cũng phí cả việc không đi.
Văn nhân gặp việc thường phải suy đi tính lại rồi mới làm. Văn nhân là người thông minh, thông minh thì thường không làm nổi việc lớn. Họ thường có nhiều cách nghĩ, nghĩ ngợi tỉ mỉ, nghĩ xong thì cơ hội đã không còn; mà dù còn thì hầu hết họ cũng không làm. Bởi vì văn nhân cũng là người có vốn liếng. Vốn liếng ít hơn hào tộc, nhiều hơn lưu manh, không nhiều không ít, thật khó xử. Họ cũng có một ít tài sản, một tổ ấm, vợ hiền con dại. Biết lo liệu có thể là thân sĩ, có kém nữa thì cả nhà cũng được no đủ, muốn họ bỏ số vốn liếng ít ỏi đó vào một canh bạc lớn không chừng sẽ mất tất e là khó? Vì vậy, chỉ có Ngô Dụng không một tấc đất cắm dùi mới đi làm giặc cỏ. Sở dĩ bọn Ngô Dụng có thể “đi buôn” là bởi bọn y có chút vốn liếng, đó là học vấn. Học vấn tri thức là phải dùng. Không dùng coi như chẳng có gì. Dùng như thế nào? Một là bán cho hoàng đế, làm quốc sư, hai là bán cho giặc cướp, làm quân sư. Đương nhiên bán cho hoàng đế là tốt nhất, nếu không xong mới bán cho giặc cướp, đừng bỏ không phí hoài. Huống hồ thành là vương hầu, bại là giặc cướp, giặc cướp xưa kia cũng có thể trở thành hoàng đế. Như vậy không phải là khai quốc công thần sao? Đó chính là nguyên nhân vì sao trong nghĩa quân luôn có mặt văn nhân. Tóm lại văn nhân muốn làm quan. Quan trọng triều thời bình, quan với giặc thời loạn. Họ không dám quay đầu làm phản.
Lưu manh không nghĩ được nhiều như thế. Lưu manh chẳng có gì ngoài sự can đảm. Chính vì chẳng có gì nên mới can đảm. Nghĩ xem, không có gia tài thì sợ gì phá sản, không có chức vị, sợ gì bị bãi quan, không có địa vị, sợ gì mất mặt, không có tri thức, không sợ nói sai. Vậy, họ sợ cái gì? Sợ chết chăng? Chuyện đùa, ai mà chẳng phải chết? Sợ chết không có đất chôn ư? Tôi vốn không mua nổi cỗ quan tài. Chẳng phải thân bại danh liệt sao? Tôi làm gì có danh. Sợ không được chết nguyên vẹn, chết dưới đao kiếm sao? Xin lỗi, dù có phải róc xương toàn thân cũng không tiếc, dám lôi hoàng đế xuống. Chỉ cần lôi được hoàng đế xuống là lãi rồi. Giả như lôi không xong, chỉ làm hắn sợ, coi như chúng ta đã không sống uổng. “Vốn là lưu manh, tôi còn phải sợ ai?” “Thằng nhãi” Lưu năm xưa, sau này là Lưu Bang, đại để là nghĩ như vậy.
Nhưng nếu nghĩ Lưu Bang là kẻ “to gan ngốc nghếch”, chúng ta đã phạm sai lầm lớn.
Tuy Lưu Bang ra mắt quá sớm, trong tình trạng chưa chuẩn bị nhiều về lý luận về tư tưởng, nhưng một khi đã bước ra sân khấu, Lưu Bang có cảm giác hiện trường rõ rệt, có mục đích rõ ràng đó là “chỉ được thành công, không được thất bại”. Có điều sự thành công nói ở đây là muốn nói tới “kết quả cuối cùng”. Vì vậy, có thể thất bại tạm thời, nhưng nhất định phải chuyển bại thành thắng. Hạng Vũ thì khác, một khi cảm thấy vô vọng đã vội vứt bỏ, chỉ cần một cảnh ra mắt và một màn cảm ơn thật đẹp, giữ được sĩ diện của người anh hùng. Không bao giờ Lưu Bang làm một việc ngốc nghếch như vậy.
Để có được thắng lợi cuối cùng, Lưu Bang đã làm được nhiều việc, Hạng Vũ không làm được, như lễ hiền hạ sĩ, lắng nghe lời trung, sửa chữa sai lầm, kìm nén dục vọng và cả ba chương ước pháp, sau khi vào Tần, là không tơ hào của công… Từ đó Lưu Bang đã được lòng dân, không chỉ được nhân dân trăm họ yêu quý, còn được mưu thần tướng sĩ yêu quý. Sự thực thì sở trường lớn nhất của Lưu Bang là biết người và giỏi dùng người. Sau khi lên làm hoàng đế, Lưu Bang đã cùng quần thần bàn về nguyên nhân vì sao Hạng Vũ mất thiên hạ, mình được thiên hạ. Lưu Bang nói, ngồi nghĩ kế trong màn để thắng ngoài ngàn dặm thì mình không bằng Trương Lương; trị nghiêm đất nước, vỗ yên trăm họ, cung ứng quân nhu, giữ đường tiếp lương, mình không bằng Tiêu Hà; cầm trăm vạn quân, đánh thẳng công phá, mình không bằng Hàn Tín. Ba vị này đều là nhân tài ưu tú nhất trong xã hội, cùng phò tá, nên mình mới có được thiên hạ. Hạng Vũ chỉ có Phạm Tăng nhưng không biết dùng, nên mới thất bại.
Sự thực là vậy, Hạng Vũ là người “theo chủ nghĩa anh hùng”, còn Lưu Bang biết vận dụng trí tuệ của tập thể. Vì thế, Lưu Bang tuy không biết gì, nhưng lại biết tất cả. Cũng không hẳn Lưu Bang không có chút khả năng nào, ít ra cũng có chút khả năng giữ nhà mà chỉ bọn lưu manh mới biết. Một là nhẫn nhịn, hai là xỏ lá, ba là côn đồ.
Năm 206 trước Công nguyên, Sở Hán giao tranh, cha Lưu Bang là ông Lưu cùng vợ Lưu Bang là Lã thị bị bắt làm tù binh. Trước ba quân, Hạng Vũ cho bắc bếp đun nước sôi, để ông Lưu trên kệ, uy hiếp Lưu Bang, nếu không hàng sẽ luộc chín ông Lưu. Ai ngờ Lưu Bang lại tươi cười vui vẻ nói: “Năm nào hai ta còn dưới trướng Hoài Vương, từng kết nghĩa anh em, cha ta cũng là cha ngươi. Nay người có ý luộc chín cha chúng ta, xin đừng quên, hãy để cho thằng em này một bát canh”. Hạng Vũ thấy Lưu Bang quá ư lưu manh, nghĩ đi nghĩ lại hết cách, đành phải lui quân.
Lưu Bang tuy lưu manh côn đồ, nhưng không phải đã hết tính người, vong ân bội nghĩa, càng không phải là loại táng tận lương tâm, bán đứng cha mẹ. Sau này khi đã là hoàng đế, Lưu Bang đã hết lòng cung phụng cha mẹ, không hề ra vẻ đế vương. Người vợ đầu Lã thị vẫn được phong là hoàng hậu, không vì bà ta là một bà già mặt vàng nhà quê mà bỏ bà ta để lấy một cô nàng trẻ đẹp, so với một số kẻ hễ phất lên là vội thay vợ khác, thì còn có đạo đức hơn nhiều. Lưu Bang buộc phải nói vậy vì đã hiểu được một điều, khi không thắng được ai đó, thường cho đào mồ tổ tiên, giết cha mẹ hoặc bắt người nhà người ta làm con tin, đó là hạ sách. Hạng Vũ cao ngạo và là người cao quý sẽ không bao giờ làm điều đó. Chỉ cần còn một ít khả năng, Hạng Vũ sẽ không làm vậy. Sau này Hạng Vũ còn muốn quyết đấu với Lưu Bang. Thách đấu là việc làm hay hơn việc luộc chín cha của Lưu Bang và hợp với tính cách của Hạng Vũ hơn.
Nói đúng hơn, lúc đó Hạng Vũ chẳng còn cách nào khác. Bành Việt không ngừng làm phản ở Đại Lương, cắt đường vận chuyển lương thảo của quân Sở, đốt phá hậu viện, làm dao động lòng người, không thể kéo dài cuộc chiến, chỉ có thể đánh nhanh, giải quyết nhanh. Hạng Vũ cho đun nước sôi trước ba quân, hô hào luộc chín ông Lưu, mục đích là muốn Lưu Bang phẫn nộ, dễ quyết định tốc chiến. Hạng Vũ đánh cú tâm lý, có phần xỏ xiên và côn đồ. Rõ ràng là Hạng Vũ không nhẫn nhục được nữa. Lúc này dù có xỏ xiên, côn đồ, mặt dạn mày dày, tàn nhẫn hơn ai một chút cũng chẳng sao. về mặt này, Hạng Vũ không phải đối thủ của Lưu Bang. Tôi tin rằng khi nói câu đó, Lưu Bang đang cười đểu, còn Hạng Vũ nghe xong, hẳn lấy làm ấm ức.
Hạng Vũ đúng là rất cao quý. Đó là “mầm độc” sinh ra đã có ở con em quý tộc. Nhưng ít nhiều Hạng Vũ cũng có tính lưu manh. Nếu không thì Hạng Vũ đã chẳng dấy binh làm phản. Lưu Bang từng kể rõ mười tội của Hạng Vũ, như bội tín bỏ nghĩa, lấy oán báo ân, hại chủ, giết lũ tù binh, bội ước, tham tài… phần lớn là sự thực. Hạng Vũ làm không ít việc thất đức, như việc quận thú Cối Kê - Ân Thông mời Hạng Lương, Hạng Vũ đến bàn việc khởi binh phản Tần, Hạng Vũ nghe theo Hạng Lương, giết chết Ân Thông, cướp đoạt địa bàn. Vì tin tưởng họ, Ân Thông không hề đề phòng. Đây là việc làm không đường hoàng, ít nhiều có vẻ như “cánh xã hội đen thịt lẫn nhau”.
Nhưng cùng với địa vị ngày cao, chất cao quý trong thâm tâm Hạng Vũ cũng ngày một cao hơn, càng về sau càng cao quý. Nhân cách Hạng Vũ biểu hiện trong thời khắc cuối cùng của sinh mệnh đáng để ca ngợi!
Hạng Vũ cũng rất cao ngạo. Hạng Vũ tự coi mình là anh hùng cái thế, tướng quân trăm trận trăm thắng duy nhất trong thiên hạ chẳng có ai sánh kịp. Hạng Vũ tin rằng mình sẽ không bao giờ bại trận. Khi đã thất bại, thấy mình chẳng sai lầm gì, trách là thời vận không may (Vận không may hề, Chuy không đi). Đó chính là cái gốc khiến Hạng Vũ thất bại. Trên đời này làm gì có người nào không hề thất bại, làm gì có anh hùng nào có thể đánh dẹp khắp cõi! Người thành công thực sự là người biết tự kiểm điểm, có khả năng đoàn kết mọi người. Có người luôn đưa chuyện với Lưu Bang, nói Trần Bình là người có tài vô đức, cướp chị dâu, nhận vàng. Gian dâm trai gái, nhận tiền hối lộ đương nhiên là thất đức. Nhưng Lưu Bang vẫn rất tín nhiệm Trần Bình. Vì vậy trong những thời khắc gay go, mấu chốt, Trần Bình vẫn là người giúp được nhiều việc. Hạng Vũ không làm được như vậy. Bởi Hạng Vũ là người tự cho mình không có sai lầm, khuyết điểm nào, đương nhiên, không thể dùng được ai hơi phạm vào sai lầm, khuyết điểm. Năm đó, Hàn Tín dưới quyền Hạng Vũ nhưng không hề được tín nhiệm nguyên nhân cơ bản e là tận xương tuỷ Hạng Vũ xem thường Hàn Tín. Hàn Tín đúng là người nghèo khổ, thậm chí “vô hạnh, không được chọn làm lại”, kém xa Lưu Bang, người loay hoay mãi mới được chức đình trưởng, lại từng bị chịu nhục luồn háng giữa chợ, đương nhiên Hạng Vũ càng xem thường Hàn Tín. Nhưng Hạng Vũ đã không nhìn thấy cái tài của Hàn Tín. Chính vì Hạng Vũ cao ngạo nên rất nhiều người tài ba nhưng nghèo khó đã chạy sang chỗ Lưu Bang, nơi luôn “chiêu hàng nạp phản, chứa chấp kẻ xấu”. Kết quả Lưu Bang trở nên hưng thịnh! Hạng Vũ biến thành “cô độc lẻ loi”.

Đó chính là cái bệnh thông thường của những người cao quý. Do cao quý nên họ không thể bao dung, không thể có gợn trong mắt, có tro bụi trong tim. Họ không hề biết biển có thể mênh mông vì biết thu nhận, “trăm sông đổ về biển, nhờ thu nhận nên rộng lớn”. Biển đâu chỉ có thu nhận nước trong? Sẽ có cả bùn cát, rồng cá hỗn tạp. Nhưng chính vì sự hỗn tạp đó, biển cả mới là biển cả. Hạng Vũ không hiểu được điều đó, thất bại là lẽ đương nhiên.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyFri Jul 04, 2014 1:36 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
HẠNG VŨ
- 2 -
Sai sót của Hạng Vũ
Sai sót của Hạng Vũ còn nhiều hơn thế này.
Sau khi Hàn Tín rời bỏ Hạng Vũ sang với Lưu Bang, đã có mấy buổi hai người trò chuyện với nhau, câu chuyện luôn nói về Hạng Vũ. Lưu Bang hỏi Hàn Tín, Tiêu thừa tướng nhiều lần tiến cử tướng quân với quả nhân, nay tướng quân có kế sách gì xin chỉ bảo cho quả nhân? Hàn Tín không trả lời thẳng mà lên tiếng hỏi lại, nay người đi về hướng đông tranh giành thiên hạ với đại vương phải chăng là Hạng Vũ? Lưu Bang nói đúng. Hàn Tín hỏi tiếp: Đại vương tính lại xem, về sự dũng mãnh của cá nhân, sự tinh nhuệ của quân lính, liệu có bằng Hạng Vũ không? Lưu Bang suy nghĩ hồi lâu rồi nói: Ta không bằng hắn. Hàn Tín đứng dậy, bái lạy, nói: Tất cả đều đúng. Bản thân Hàn Tín cũng thấy rõ, đại vương không bằng Hạng Vũ. Thực kỳ lạ. Thấy rõ Lưu Bang không bằng Hạng Vũ, lại bội phản Hạng Vũ sang với Lưu Bang, há chẳng phải là ngu ngốc sao? Đương nhiên, Hàn Tín không ngốc. Hàn Tín đã phân tích tỉ mỉ con người Hạng Vũ cho Lưu Bang nghe, phân tích tính cách, tâm lý của Hạng Vũ, cho đó là nguyên nhân thất bại của Hạng Vũ. Theo cách nói của Hàn Tín, ít ra Hạng Vũ đã có hai điểm yếu chết người, là “dũng mãnh của thất phu” và “lòng nhân của đàn bà”. Theo tôi, qua lần trao đổi này, bước đầu có thể thêm vào hai điểm, Hạng Vũ “ki bo kẹt xỉ” và “lòng dạ hẹp hòi”.
Nói “dũng mạnh của thất phu” trước.
Phải nói, Hạng Vũ rất dũng cảm, gần như Hạng Vũ không sợ một ai, chỉ có người khác sợ Hạng Vũ. Hạng Vũ cũng rất khỏe mạnh. Sách Sử ký viết, Hạng Vũ “thân cao hơn tám thước, có thể vác nổi chiếc đỉnh”, có thể thấy Hạng Vũ khôi ngô, anh tuấn, cơ bắp cuồn cuộn, mạnh mẽ hùng dũng, lũ thiếu nữ sùng bái, coi là thần tượng.
Năm 207 trước Công nguyên, có tin gấp bay đến báo, vua tôi Triệu vương bị quân Tần vây khốn ở Cự Lộc. Có hơn mười doanh quân chư hầu đến cứu Triệu, nhưng tất cả đều bất động, riêng Hạng Vũ cùng quân Sở quyết sống mái với quân Tần, lấy một chọi mười, trải chín cuộc huyết chiến với quân Tần, tiếng hô chém giết vang trời động đất, quân tướng lũ chư hầu sợ đến bạc mặt, sau này đại phá quân Tần, cứu được Triệu vương. Quân Sở can đảm, lại có sức mạnh, Hạng Vũ cảm thấy không cho họ có đất dụng võ là lãng phí, thật đáng tiếc. Vì vậy, Hạng Vũ luôn giễu võ giương oai. Tuy là thống soái, nhưng Hạng Vũ thích xông pha nơi hiểm trận. Mỗi lần chiến đấu, Hạng Vũ thường xông lên trước ba quân, tới đâu quét sạch tới đó. Thường là, Hạng Vũ chưa động tới binh khí, chỉ cần trừng mắt nhìn, đối phương đã hồn bay phách lạc, mắt không dám nhìn, tay chân cứng đờ, tè cả ra quần, tan rã hoàn toàn. Những chiến công như vậy không phải ít. Tôi tin rằng cứ mỗi lần như vậy, Hạng Vũ sẽ cảm thấy khoan khoái vô cùng.
Từ chỗ khoan khoái, Hạng Vũ luôn muốn quyết đấu với chủ soái đối phương, Hạng Vũ nói với Lưu Bang, bao năm nay thiên hạ không yên, chẩng phải là do hai ta sao? Hai ta dứt khoát phải đấu với nhau, ai thắng thiên hạ là của người đó, việc gì để người thiên hạ phải khổ theo! Đúng là khí khái của anh hùng, của phái quý tộc. Tiếc là Lưu Bàng không mắc bẫy, không bao giờ Lưu Bang chịu đơn thương độc mã tiếp chiêu Hạng Vũ. Thế rồi Lưu Bang cười khà khà nói, Lưu mỗ chỉ đấu trí không đấu sức. Tôi tin rằng lúc nói câu này, thể nào Lưu Bang cũng nở một nụ cười xỏ xiên.
Xét về góc độ thẩm mỹ, biểu hiện của Lưu Bang chẳng đẹp chút nào. Nhưng về góc độ quân sự, chính trị, Lưu Bang đều đúng. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị, là bước cao nhất của đấu tranh chính trị. Thắng bại của chiến tranh, nói đến cùng là thắng bại của đấu tranh chính trị, ít ra cũng là thắng bại của chiến lược chiến thuật, không can hệ gì tới cơ thể lớn bé, tới sức lực của chủ soái. Hạng Vũ coi đánh trận như đánh nhau, coi chính trị như kịch hát, giản đơn như con trẻ. Mọi người đều rõ, “quân cần tinh không nhiều, tướng cần mưu không cần mạnh”. Hạng Vũ không phải không biết điều này, không thế đã chẳng phải học binh pháp, còn nói, không học cái “chỉ đánh được một người” mà đòi học cái “đánh được cả vạn người? Tiếc rằng khi gặp việc, Hạng Vũ không dùng tới cái “đánh cả vạn người”, mà chỉ dùng tới cái “đánh được một người”. Rõ ràng Hạng Vũ không phải soái tài, chỉ là thất phu có sức mạnh và rất dã man, ác bá.
Từ lâu đã có người so sánh “sức mạnh của kẻ thất phu” và “sức mạnh của người quân tử”. Giữa đường gặp chuyện bất bình, rút kiếm xông lên, không nói một lời, thượng cẩng chân hạ cẳng tay, đó là cái mạnh của thất phu, chỉ cần một ít máu hăng, một ít sức lực, không cần có chí hướng, có rèn luyện, bất kỳ người nào cũng có thể làm được, chính đó là cái mạnh của kẻ thất phu. Thế nào là cái mạnh của người quân tử? Núi Thái Sơn đổ mà sắc không đổi, hươu nai nhảy múa ơ bên cạnh mà mắt không chóp, nguy hiểm gần kề mà không hề sợ, không có cớ là không tức giận, đó là cái mạnh của người quân tử. Hiển nhiên cái mạnh của người quân tử biểu hiện ở sự trấn tĩnh, ở định lực. Tô Đông Pha nói, đó là vì “chí hướng càng lớn, mục đích càng xa”. Cũng tức là, vì lý tưởng cao cả có thể tạm thời chịu nhục, không tính tới sự được mất trước mắt. Vì vậy “địch tiến ta lui” không phải là nhu nhược, “đánh được thì đánh, không đánh được thì rút” cũng không phải là khiếp sợ. Đương nhiên, một mực ham đánh, vì sĩ diện quên mất lí tưởng cao cả, cũng không phải là dũng cảm, Lưu Bang bị mũi tên của Hạng Vũ bắn trúng ngực, eo lưng cong xuống, nhân đó cúi xuống sờ vào mấy ngón chân của mình, lên tiếng mắng luôn: Thằng nhãi thối tha, bắn phải chân ta rồi, sau đó quay đầu chạy thẳng. Phải là người mưu trí, có thêm giảo hoạt mới làm được như vậy. Không thể nói là nhát gan hoặc lúng túng.
Cái mạnh của thất phu là cái mạnh của một người, cái mạnh của tướng soái là cái mạnh của vạn người. Trên chiến trường không thể không có sức mạnh, “hai quân giao tranh, quân mạnh sẽ thắng”. Nhưng sức mạnh nói ở đây là sức mạnh của toàn quân, không phải sức mạnh của cá nhân. Đương nhiên trong một lúc nào đó, tướng lĩnh lên trước ba quân sẽ có tác dụng cổ vũ sĩ khí, trong thời đại binh khí lạnh lại càng như vậy. Nhưng Hạng Vũ xông vào hiểm trận lại không phải để cổ vũ sĩ khí mà hoàn toàn vì sự say mê cá nhân. Kết quả, do Hạng Vũ sống theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân, binh sĩ và các tướng sĩ khác thấy có mình cũng như không, làm gì còn sức mạnh và trí tuệ của tập thể? Tư Mã Thiên phê bình Hạng Vũ “dùng trí riêng” (chỉ dựa vào cá nhân), “đánh bằng lực” (chỉ dùng bạo lực), hai điều này nói rõ được điểm mấu chốt.
Nói về lòng nhân của đàn bà.
Lòng nhân của đàn bà và sức mạnh của thất phu dường như có mâu thuẫn? Thực ra con người Hạng Vũ vốn luôn mâu thuẫn. Tính cách Hạng Vũ có mặt dũng cảm, có mặt nhu nhược; có mặt tàn nhẫn, có mặt ôn hoà. Hạng Vũ tự xưng là Tây Sở bá vương, sự thực là rất dã man và bá đạo. Hạng Vũ thật bạo ngược, cậy mạnh cậy khỏe, giết người không run tay. Ân Thông quận thú Cối Kê không hề có thù oán gì với Hạng Vũ, hai bên còn có ý họp nhau phản Tần, nhưng nói giết là giết. Tống Nghĩa hay nói trời nói bể kỳ thực là một người chậm hiểu, tuy có chút sai sót nhỏ với Hạng Vũ, cũng nói giết là giết(1). Hoài Vương là Nghĩa đế vô tích sự, Hạng Vũ chỉ đông, y không dám chỉ tây, Hạng Vũ chỉ nam, y không dám chỉ bắc, muốn dọn nhà phải dọn nhà, muốn nhường đất phải nhường đất, không cản đường Hạng Vũ, nhưng vẫn bị Hạng Vũ sai người mưu sát. Thê thảm nhất, là, hai mươi vạn quân đầu hàng của triều Tần, Hạng Vũ chỉ trong một đêm đã tập kích chôn hết. Ôi, hai mươi vạn người! Hạng Vũ không nói lời nào, không hề chớp mắt, sai người giết sạch.
Nhưng trong Hồng Môn yến, mặt đối mặt với Lưu Bang, Hạng Vũ không xuống tay được.
Vì giữa hai người không thù không oán gì chăng? Ân Thông và Hạng Vũ cũng không thù oán gì. Vì Hạng Vũ nhận ân đức của Lưu Bang? Hạng Vũ giận đến nghiến răng nghiến lợi lúc Lưu Bang vào Hàm Dương trước. Vì không biết thế nào là lợi hại chăng? Phạm Tăng đã chỉ rõ: Lưu Bang “chí chẳng nhỏ” lại có “khí độ của thiên tử”, đó chính là cái hoạ trong lòng cần phải vứt bỏ. Không có khả năng giết chăng? Với võ công của mình Hạng Vũ bảo người phải chết canh ba thì người có dám sống đến canh năm? Huống hồ Lưu Bang, danh nghĩa là khách mời của Hạng Vũ, nhưng thực chất là tù binh, trong ngoài đều là người của Hạng Vũ. Ngay Phàn Khoái cũng đã nói với Lưu Bang, người ta là con dao cái thớt, chúng ta là con gà con cá. Hay không có cơ hội để xuống tay? Cơ hội có nhiều như trước lúc Phàn Khoái vào trướng hộ giá, không thành vấn đề. Như lúc Phạm Tăng đưa mắt ra hiệu, Hạng Vũ vẫn không có phản ứng, cuối cùng thì Lưu Bang như con ngan đã luộc chín lại bay mất. Phạm Tăng tức giận, chửi rủa: tré con, không đáng để bày mưu.
Từ lâu Phạm Tăng đã hiểu: “Quân vương đôi lúc không đành lòng”. “Không đành lòng” chính là “lòng nhân của đàn bà”.
Chẳng phải Hạng Vũ là người rất tàn nhẫn sao? Sao lại nói “không đành lòng?”.
Thực ra Hạng Vũ bề ngoài rất cứng rắn nhưng trong lòng lại rất yếu đuối. Hạng Vũ là người thích sĩ diện. Người thích sĩ diện thì nội tâm đều rất yếu đuối. Duy chỉ có người yếu đuối thì mới thích sĩ diện. Hạng Vũ vì không muốn có bất kỳ một thương tổn nào, nên mới liều mạng giữ cho được sĩ diện của mình. Luôn luôn nghĩ đến sĩ diện, nên Hạng Vũ mới tự vẫn ở Ô Giang: “Dẫu cho các phụ lão Giang Đông có thương mà phong vương cho ta, thì ta còn mặt mũi nào nhìn thấy họ” và đã lưu lại một câu danh ngôn về sĩ diện: “Còn mặt mũi nào nhìn phụ lão Giang Đông”. Vì sao không còn mặt mũi nào? Ngoài những ý nghĩ khác, còn vì muốn được sự thương xót. Đối với một người suốt đời chỉ muốn mạnh như Hạng Vũ thì thương xót là thương hại. Vì vậy Hạng Vũ mới nguyện chết. Tự giết mình thì sĩ diện mới còn, lòng dạ được thanh thản.
Tính cách, nội tâm Hạng Vũ luôn có mâu thuẫn và xung đột. Nói trắng ra, Hạng Vũ là một nhà nghệ thuật hành vi bất hạnh, như một đứa trẻ bị đẩy ra chiến trường, nơi chém giết. Hạng Vũ không nghĩ nhiều về giết người, nhưng lại không thể không giết người, không nghĩ nhiều về đánh trận nhưng lại không thể không đánh trận. Hạng Vũ còn có cách lựa chọn nào khác? Hạng Vũ không có cuộc sống khác, chẳng còn cách nào có thể thể hiện được giá trị sinh tồn, hoàn thành hành vi nghệ thuật của mình chỉ còn biết thông qua việc giết người mở đầu hành trình cuộc sống, chỉ biết thông qua chiến tranh để hoàn thành cuộc sống. Vì vậy, Hạng Vũ vừa thích giết người, vừa thích đánh trận. Nhưng đằng sau sự dũng cảm là nhu nhược, đằng sau sự tàn nhẫn là tình thương. Hạng Vũ giết người như ngóe, nhưng trong thâm tâm lại có chút khiếp sợ. Hạng Vũ đánh trận nào cũng thắng, nhưng trong tận đáy lòng lại có phần cảm giác thất bại. Chính vì nội tâm khiếp sợ, nên mới liên tục giết người. Chính vì sợ thất bại, nên mới gắng sức để thắng lợi. Chỉ có những dòng máu tươi không ngừng chảy mới rửa sạch được nỗi nhục nhã sinh ra từ sự yếu đuối, và cũng chỉ có thắng lợi liên tiếp thắng lợi mới an ủi được tâm trạng đau khổ bất an.
Vì vậy chúng ta mới thấy Hạng Vũ đã không còn giữ được bình tĩnh như lúc khiêu chiến với Lưu Bang. Không cần đưa nhiều người ra chiến trường, hai chúng ta đấu với nhau là xong! Điều đó, chứng tỏ Hạng Vũ đã quá mệt mỏi, mong chiến tranh sớm kết thúc, và cũng chứng tỏ, Hạng Vũ rất sợ thất bại, mong lần này lại chiến thắng với phương thức tiện nhất và đảm bảo nhất. Vì vậy khi nghe tiếng hát bài ca nước Sở vang lên khắp nơi, Hạng Vũ đã không điều tra, không nghiên cứu, cũng không nghĩ xem có phải là mưu kế của kẻ thù, mà nghĩ ngay rằng mình đã thất bại. Bởi vì từ nơi sâu thẳm trong tâm lý Hạng Vũ đã sẵn có “mầm của thất bại”. Thậm chí, tôi còn tin rằng trong lòng Hạng Vũ đang vang lên một giọng nói: “Ngày này đã đến! Cuối cùng đã kết thúc tất cả!”.
Trong lúc Hạng Vũ “thở phào” vì cuối cùng đã thất bại thì tự đáy lòng Hạng Vũ, sự uỷ mị đằng sau sự tàn nhẫn đã trỗi dậy. Thắng thua thành bại, sống hay chết liệu còn ý nghĩa gì? Cái duy nhất còn nhớ tới bây giờ là con tuấn mã và người đẹp. Đây cũng là mối chung tình duy nhất, là nơi “trong sạch” nhất của Hạng Vũ, sau cả đời chinh chiến, giết chóc. “Chuy không đi chừ, biết làm sao! Nàng Ngu hỡi, biết là làm sao?”. Thực thắm thiết, ấm áp biết bao, thực dịu dàng, tình cảm biết bao! Chẳng trách đã phải “hàng hàng lệ rơi”. Nghe nói con người Hạng Vũ cũng hay rơi lệ. Hàn Tín nói, ông đã thấy lệ mỗi khi tướng sĩ bị thương, ốm đau, Hạng Vũ đều rơi lệ, tự tay bưng cơm bưng cháo đến cho. Nhưng lần này là khóc cho mình.
Những tình cảm chân thực, thế giới nội tâm của nam nhi khí phách đều trong những dòng nước mắt này!
Ở Hạng Vũ còn có chút tình cảm nữ nhi thường tình, đó chính là một tố chất của nhà nghệ thuật. Thậm chí Hạng Vũ còn giống các bà các cô, Hàn Tín cho hay, Hạng Vũ nói năng tỉ mẩn, dây cà ra dây muống. Chẳng khó khăn gì, chúng ta đã tương tượng ra hình tượng Hạng Vũ trước quân doanh: Bưng mâm cơm, rơi nước mắt, cầm ray thương binh, bệnh binh hàn huyên hết chuyện nhà đến chuyện cửa. Nếu không phải Hàn Tín tự mắt nhìn thấy, tự miệng nói ra thì không thể tin nam tử bạt núi lấp sông, anh hùng cái thế này lại có những tình cảm dịu dàng, ấm áp đến như vậy.
“Lòng nhân” của Hạng Vũ đã được công nhận từ cả hai phía. Hàn Tín nói Hạng Vũ “biết cung kính yêu thương”; Trần Bình nói Hạng Vũ “cung kính thương người”; Cao Khởi, Vương Lăng đều nói Hạng Vũ có nhân có thương”. Đối với Lưu Bang, quan điểm của họ gần như nhất trí là: Ngạo mạn, vô lễ, còn thích làm nhục người khác. Một số người đã nhận xét như vậy ngay trước mặt Lưu Bang. Lưu Bang thích mắng người, mắng Tiêu Hà, mắng Hàn Tín, mắng tất cả lũ thuộc hạ. Vui cũng mắng, buồn cũng mắng. Ngay cả khi phong quan tước cho người khác cũng kèm một câu “mẹ kiếp” thể hiện bộ mặt của lưu manh, thổ phỉ, lục lâm thảo khấu. Lưu Bang không hiểu các loại nghi lễ khi tiếp khách, nhận lễ vật, trị quốc an dân, thậm chí không hiểu lễ nghĩa là gì. Lưu Bang ghét cay ghét đắng loại nho sinh, mở miệng rao giảng lễ nghĩa; mỗi khi nhìn thấy chiếc mũ trên đầu họ, là chỉ muốn kéo xuống làm bô. Nho sinh Lịch Tự Cơ đến thăm, Lưu Bang vẫn chễm chệ ơ trên giường, hai cô gái hầu rửa chân. Lịch Tự Cơ nghiêm nghị nói: Túc hạ đang muốn diệt Tần bạo ngược vô đạo, thì không nên ngạo mạn, vô lễ khi thấy lão già này. Lưu Bang vội vàng đứng lên, chỉnh trang áo mũ, nói lời xin lỗi và mời Lịch Tự Cơ ngồi. Tiêu Hà tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang, nói lý nói lẽ một hồi, Lưu Bang phẩy tay nói: được rồi để hắn làm tướng quân. Tiêu Hà nói, tướng quân thì Hàn Tín sẽ bỏ đi. Lưu Bang bèn nói: Làm đại tướng quân vậy, gọi hắn vào đây! Tiêu Hà nói: ngài vẫn luôn ngạo mạn, vô lễ như vậy. Một khi phong là đại tướng quân, sao lại như bảo ban một đứa trẻ vậy? Chẳng trách Hàn Tín lại muốn bỏ đi. Lúc này Lưu Bang mới đồng ý chọn ngày lành, trai giới, lập đàn làm lễ. Lưu Bang vô lễ, Hạng Vũ ôn hoà trọng lễ, hai tính cách đối ngược nhau.
Cũng không có gì là lạ. Hạng Vũ là quý tộc, mà lễ nghĩa là điều không thể không rèn luyện trong giới quý tộc. Hạng Vũ hiểu rõ phải dùng lễ đối đãi người và làm theo lễ nghi. Lưu Bang là lưu manh, đâu có được dạy dỗ như vậy. Sau khi là công, là vương, Lưu Bang đã biến đổi nhiều, nhưng đôi khi do không để ý lại để lộ chân tướng. Sau khi xây dựng xong cung Vị Ương, hoàng đế Lưu Bang mở tiệc khoản đãi quần thần. Lúc rượu đã say, Lưu Bang đã nói với ông Lưu, bây giờ đã là Thái thượng hoàng: “Cha à, lúc trước ông vẫn nói tôi lười biếng, không bằng anh hai, bây giờ ông xem, của cải tôi và anh hai ai nhiều hơn ai?”. Thế mà quần thần trên điện đều hưởng ứng, hô vang vạn tuế, nói cười thoải mái, chẳng ra thể thống gì!
Nhưng vì sao Hạng Vũ là quý tộc luôn cung kính thương người, lại không được lòng người như Lưu Bang - vốn là loại lưu manh ngạo mạn hay mắng người?
Bọn Hàn Tín đã giải đáp câu hỏi này. Lúc Cao Khởi, Vương Lăng tổng kết về thành bại, được mất của Lưu, Hạng đã nói với Lưu Bang, bệ hạ thường ngạo mạn và khinh người, Hạng Vũ có lòng nhân và thương người, nhưng bệ hạ cử người đi phá thành chiếm đất, chiếm xong thì ban thưởng cho họ, như vậy mọi người đều được lợi. Hạng Vũ thì sao? Thắng lợi thì không tính đến công lao của mọi người, không ai được hưởng lộc, đương nhiên là mất thiên hạ. Hàn Tín nói rất rõ: Hạng Vũ đối nhân không tồi, luôn hỏi han quan tâm. Nhưng khi một người có công nên ban tước phong đất, đằng này ấn tín cứ nắm trong tay, suốt ngày sờ mó vuốt ve, không muốn ban cho người khác, đó là lòng nhân của đàn bà. Đúng vậy, so với ban tước phong đất, thăng quan phát tài thì ân cần thăm hỏi, bưng cơm bê cháo có nghĩa lý gì? So với việc Lưu Bang ban tiền nhiều, thưởng đất rộng, phong nhiều quan thì Hạng Vũ chỉ như trẻ con.
Tính khí trẻ con của Hạng Vũ có lúc khiến người ta khó hiểu. Chiếm Hàm Dương, không lên làm hoàng đế, không ở trong cung điện, Hạng Vũ cho quân đốt phá cướp bóc, bao nhiêu vàng bạc châu báu, đàn bà con gái xinh đẹp, cho hết lên xe chạy về Bành Thành (nay là Từ Châu, Giang Tô), lên làm Tây Sở Bá Vương. Đúng như suy nghĩ của A.Q, chỉ lo khênh được chiếc giường kiểu mới của vợ tú tài về bên chùa Thổ Cốc, không nghĩ rằng có thể ngủ ngay trong nhà tú tài. Có người khuyên Hạng Vũ, Quan Trung địa thế hiểm trở, đất đai mầu mỡ, dựng đô nơi đây, nghiệp bá sẽ thành. Hạng Vũ lại nói, phú quý mà không quay về thì khác gì áo gấm đi đêm. Ai có thể ngắm được? Rõ tính khí trẻ con! Người đương thời bàn rằng, người Sở giống như lũ vượn đội mũ người, quả nhiên là vậy!
Người nói câu đó, lập tức bị Hạng Vũ cho ném vào vạc dầu, nhưng Hạng Vũ cũng chẳng tiến bộ được, thì câu nói ấy đã trở thành sự thực. Vương Bá Tường cho rằng, áo gấm đi đêm chỉ là câu nói thác của Hạng Vũ. Thực tình Hạng Vũ đã nghĩ, căn cứ địa của quân Sở ở tận Giang Đông, quay về vừa yên tâm, vừa không sợ Hoài Vương. Kỳ thực, Sở vương chỉ là con rối hữu danh vô thực, từ một đứa trẻ chăn dê được Hạng Vũ dựng lên, có gì đáng nói? Đoạt thiên hạ đâu cần phải chọn căn cứ địa? Năm đó, nếu quân Thanh sau khi chiếm được Bắc Kinh cũng quay về Phụng Thiên thì làm gì có vương triều Đại Thanh?
Đó chính là lòng dạ hẹp hòi. Hẹp hòi nên Hạng Vũ đã mưu sát Hoài Vương, từ đó mà mất lòng dân. Hẹp hòi nên Hạng Vũ đã nghi ngờ Phạm Tăng, từ đó để mất đi cánh tay phải. Trẻ con nên mọi người xem thường, lòng dạ hẹp hòi nên chẳng ai thương. Những người có chí hướng, có năng lực bên cạnh Hạng Vũ như Trần Bình, Hàn Tín đều lần lượt ra đi, còn lại chỉ là một con tuấn mã, một người đẹp sát cánh không rời Hạng Vũ.
Cô độc, thất bại đều do Hạng Vũ tự chuốc lấy.
Phạm Tăng là người trung thành nhất bên cạnh Hạng Vũ.
Phạm Tăng người Cư Sào (nay là huyện Sào, An Huy). “Nhà nghèo mà kế hay lạ”, là nhân vật kiểu Gia Cát Lượng. Lúc Hạng Lương khởi nghĩa, ông đã bảy mươi tuổi, nhưng vẫn theo quân cùng Hạng Lương, Hạng Vũ nam chinh bắc chiến, xây dựng sự nghiệp. Ông luôn nhìn vấn đề ở một tầm cao hơn, trúng vào điểm mấu chốt. Ông thường nói với Hạng Lương, Trần Thắng thất bại là lẽ đương nhiên. Tần diệt sáu nước, nước Sở vô tội, nên mới có lời sấm truyền: “Sở tuy chỉ còn ba nhà, nhưng diệt Tần tất là Sở”. Trần Thắng cầm đầu nghĩa quân, không lập đời sau của Sở vương lại tự lập, tất sẽ không bền. Các hạ đời đời là tướng nước Sở, nếu lập đời sau của Sở để hiệu triệu thì quần chúng sẽ theo ngay. Lời nói rất có lý, Hạng Lương làm theo ngay, rõ ràng rất hiệu quả. Sau khi Lưu Bang vào Quan Trung trước, Phạm Tăng nói với Hạng Vũ, lúc ở quê Lưu Bang tham tài háo sắc thành tính, lần này vào Quan Trung đã không phạm một sai lầm nào, không tơ hào một cắc, không đụng tới gái, rõ ràng dã tâm không nhỏ. Lời nói tuy đơn giản nhưng thấy ngay được tầm suy nghĩ. Từ đó Hạng Vũ rất tôn trọng Phạm Tăng, tôn ông là “á phụ” (chỉ dưới cha mình) gọi ông là á thúc, giống như Tề Hoàn công gọi Quảng Trọng là “Trọng phụ”, Lưu A Đẩu gọi Gia Cát Lượng là “Tổ phụ”, Trần Bình cũng coi Phạm Tăng là số một trong mấy vị “thần cốt cán” của Hạng Vũ.
Nhưng vị á phụ đã bị Lưu Bang dễ dàng lỵ gián. Kế sách rất đơn giản: Sứ giả của Hạng Vũ đến chỗ Lưu Bang, Lưu Bang mở tiệc linh đình để khoản đãi. Khi sắp vào tiệc lại vờ như bàng hoàng lo lắng: Ngỡ là sứ giả của á phụ, đâu ngờ của Hạng vương. Thế rồi bày tiệc với những món ăn chẳng ra gì để đuổi khách, đúng là “trẻ con” hết mức, nhưng Hạng Vũ đã trúng kế, bắt đầu nghi ngờ và cho theo dõi Phạm Tăng. Phạm Tăng rất thông minh đã nói với Hạng Vũ: “Thiên hạ đã định, quân vương hãy tự lo liệu!”, rồi phẩy tay ra đi và đã chết trên đường về nhà.
Chút âm mưu quỷ kế của Lưu Bang, Trần Bình đã có tác dụng và chẳng bao lâu mọi người đã nhận ra và tất cả đều do tính ích kỷ hẹp hòi của Hạng Vũ.
Đường đường là quý tộc mà tính khí như trẻ con, một nam tử hán thân cao tám thước mà lòng dạ hẹp hòi, nhìn bề ngoài thực khó hiểu, nhưng xét kỹ thì cũng có lý. Thực ra, quý tộc rất dễ biến thành kẻ hẹp hòi (cho dù không nhất định). Bởi quý tộc nhờ vào cao quý, mà người cao quý lại là thiểu số. Như vậy cái khuôn của quý tộc rất nhỏ. Một người nếu từ bé cứ phải sống trong cái khuôn nhỏ bé đó thì tâm hồn khó lòng được rộng mở. Cho dù sau này có được sống trong khoảng trời bao la thì do cao quý và cao ngạo bẩm sinh, họ cũng khó lòng hoà hợp với mọi người. Hạng Vũ chẳng có cách gì xoá bỏ được cảm giác cao quý trong lòng mình, thường vô ý bộc lộ ra, thêm nửa, được sống trong cảnh giàu sang, nên không thấu hiểu được nỗi khốn khó của mọi người. Hạng Vũ dù có thực lòng quan tâm tới người khác, vẫn cho họ một cảm giác như vờ vĩnh, vì cái mà họ cần lại không được nhắc tới. Anh em tướng sĩ vào sinh ra tử, chiến đấu quên mình là vì cái gì? Há chẳng phải vì “phong thê ấm tử” rạng rỡ tổ tông! Cái đáng phong thì Hạng Vũ không phong, cái đáng thưởng thì Hạng Vũ không thưởng, chỉ có mấy giọt nước mắt, chỉ có mấy việc bưng cơm bê nước thì đáng kể gì?
Quý tộc còn một nhược điểm nữa là thanh cao. “Thanh” thì dễ bẩn, “cao” thì dễ gãy, vì vậy thế giới nội tâm của họ luôn luôn ỵếu đuối, dễ dàng biến thành hẹp hòi. Bản thân họ tự cho là trong sạch hoàn hảo, nên họ luôn đòi hỏi người khác phải đầy đủ chu toàn. Nếu như người đó là ẩn sĩ thì chẳng sao, nhưng là một thống soái thì khó tránh nghi thần nghi quỷ. Kết quả là cái khuôn kia ngày một nhỏ lại. Trần Bình từng nói, những người bên cạnh Hạng Vũ phải luôn trong sạch hoàn hảo, chú trọng cốt cách, giữ gìn tiết tháo, nho nhã thanh lịch, còn cạnh Lưu Bang toàn những kẻ tham tài háo sắc, trộm chó cướp gà. Nhưng người loại nào nhiều, loại người nào ít, loại người nào thì được việc, loại người nào chẳng làm được gì, chẳng phải đã rõ ràng sao?
Trên thực tế, do cao quý nên ở quý tộc sản sinh ra hai loại tính cách, hai loại tâm lý. Một loại rất khoan dung, một loại rất hẹp hòi. Người khoan dung lập luận thế này: Ta đã cao quý nhất thì không nên bài xích bất cứ thứ gì. Giống như biển cả mênh mông, mênh mông vì bao dung tất cả. Kẻ hẹp hòi lại nghĩ khác: Chỉ mình là cao quý, những kẻ khác chẳng là gì. Như ngọn núi tuyết cao ngất kia, chẳng chứa thêm được gì. Kẻ quý tộc hẹp hòi, một khi vào đời sẽ không có nơi thích họp; một khi sa sút lại được giàu sang quyền thế, thì tính khí chẳng khác gì trẻ con. Y sẽ coi mọi thứ có được là do năng lực phi phàm, khí chất cao quý của mình, không thừa nhận công sức của người khác. Y coi mọi thứ là của riêng, không để mọi người cùng hưởng. Y luôn coi người khác chẳng là gì cả. Với tâm lý đó, y tự cho mình là cao quý, người khác lại thấy y tầm thường. Hạng Vũ chính là loại người như vậy.
Cũng như vậy, do ti tiện con người trở thành lưu manh, lưu manh cũng chia ra hai loại. Một loại là tầm thường ti tiện, một loại là hào phóng rộng rãi. Loại trước chẳng lấy gì làm may mắn, suốt đời làm tay sai, ăn cắp vặt, không thể mở mày mở mặt. Loại sau có nhiều vận may, thường gây dựng thành đại nghiệp. Thứ nhất, họ chẳng có gì ngoài chiếc gậy và tờ giấy trắng, chẳng nghĩ ra được gì, đôi lúc lại muốn làm chuyện lớn, như “làm hoàng đế” chẳng hạn. Có ước muốn lại có thời cơ, đúng là “mong ước thành sự thật”. Thứ hai, họ vốn chẳng có gì, nếu có, thì phần lớn là của bất nghĩa hoặc là nhặt được, không phải là do lao động mà có, chẳng hề xót thương, dám “phân phát cả ngàn vàng”. Thứ ba, bản thân họ chẳng mấy trong sạch, làm gì còn chuyện đi bới móc thói hư tật xấu của người khác. Tự nhiên, họ sẽ biết bỏ qua cho người khác. Hơn nữa, họ là người cùng cực nhất, họ hiểu rõ nhân tình thế thái và nỗi khổ của con người, người ta sợ gì và muốn gì. Họ có nhiều cách để thu phục lòng người. Đã biết cách dùng người hiểu người, lại là người hào phóng rộng rãi, thì chẳng lo không mua được chó săn, không lo không có người yêu mến, phò trợ. Một khi thiên hạ đại loạn, khói lửa ngút trời, nhân đó mà ra tay dẹp loạn đoạt quyền. Lưu Bang chính là loại người đó.
Thắng lợi cuối cùng của Lưu Bang không phải là không có lý.
Xưa có câu “Được lòng người thì được thiên hạ, mất lòng người thì mất thiên hạ”. Việc được, mất của Lưu, Hạng đúng là phải xem xét từ chuyện “được lòng người”.
Vậy hai người họ đã đối xử với người khác như thế nào?
Vậy thì hai người đó đối đãi người khác như thế nào?
Đại thể là, Hạng Vũ quan tâm người, Lưu Bang tín nhiệm người.
Quan tâm hoặc tín nhiệm vốn đều có thể thu phục được lòng người. Nhưng vấn đề là, Hạng Vũ quan tâm người, nhưng quan tâm không đúng chỗ. Lưu Bang tín nhiệm người và tín nhiệm đến cực điểm. Như phần trên đã nói, Trần Bình vốn là người bị ngờ là “tư thông với chị dâu, chiếm đoạt tiền vàng, phản phúc vô thường”. Chí ít, Trần Bình từng nhận hối lộ là sự thật. Nhưng chỉ sau một lần trò chuyện, Lưu Bang đã hết sức tín nhiệm Trần Bình. Lưu Bang hỏi Trần Bình: Thoạt đầu tiên sinh ở Nguỵ, sau lại sang Sở, bây giờ thì đến với quả nhân, chẳng nhẽ một người trung thực thành tâm lại luôn đổi ý như vậy sao? Trần Bình đáp lời: Đúng vậy, trước sau tôi đã phụng sự Nguỵ vương rồi Hạng vương. Nhưng vì Nguỵ vương không biết dùng người nên đành phải sang với Hạng vương. Hạng vương không thể tín nhiệm người, tôi lại đành phải chạy đến với đại vương. Tôi ra khỏi đó với hai bàn tay trắng, không nhận sự giúp đỡ của người khác thì sống sao nổi? Nếu đại vương dùng được mưu kế của tôi thì xin nhận cho, bằng không, tôi xin được “thôi việc”. Số tiền người ta cho, tôi chưa đụng tới, xin trao hết cho ngài. Nghe xong, Lưu Bang đứng lên, có lời xin lỗi, còn trao chức quan lớn cho Trần Bình, về sau, Trần Bình bàn với Lưu Bang dùng kế phản gián bên quân Hạng Vũ bằng cách bắn đạn bằng bạc, lập tức Lưu Bang đã cho xuất bốn vạn cân hoàng kim (đồng) để Trần Bình tuỳ ý sử dụng, không cần phải báo lại. Kết quả, Trần Bình vừa dùng kế nhỏ, quả nhiên khiến Hạng Vũ sinh nghi, không còn tín nhiệm những viên quan tâm phúc như Phạm Tăng, Chung Ly Muội…
Không chỉ dùng người thì không nghi mà còn phải rộng rãi thoải mái, hoàn toàn tương phản với thái độ hẹp hòi của Hạng Vũ. Đối với người khác Lưu Bang thực rộng rãi. Lưu Bang đã học được tính rộng rãi từ người mẹ mỗi khi phải trả gấp bội số tiền nợ rượu của Lưu Bang, nhưng quan trọng hơn là “ý chí không nhỏ” của mình. Lưu Bang muốn giành lấy cả thiên hạ, đương nhiên không thể tính toán tới sự được mất của thành trì nào đó, càng không thể chi li với món tiền nhỏ đó. Vì “mục tiêu lớn lao”, Lưu Bang có thể nhẫn nhịn, ví dụ kìm nén dục vọng của mình. Năm 206 trước Công nguyên, Lưu Bang từ Vũ Quan vào Tần, vào thành Hàm Dương. Trước mặt là “cung thất, màn trướng, chó ngựa, của cải, hàng ngàn cô gái”, Lưu Bang không phải không động lòng. Lưu Bang không hề để ý tới lời khuyên ra khỏi cung của Phàn Khoái. Cũng thật dễ hiểu, làm gì có chuyện một anh nhà quê từ một nơi hẻo lánh tới, đứng trước bao nhiêu của quý kỳ lạ như hoa như ngọc, vàng xanh rực rỡ mà lại không hoa mắt ù tai, thần kinh hoảng loạn? Chỉ e từ trong cuống họng cũng giơ tay ra. Nhưng sau khi nghe những lời nghịch tai mà chân thành của Trương Lương, Lưu Bang ra khỏi cung Tần, đưa quân về Bá Thượng, kiên quyết làm mọi việc để giữ lòng dân, ngay cả rượu thịt, bò dê, người Tần dâng lên uý lạo quân sĩ, Lưu Bang cũng không nhận, còn nói quân sĩ đã có quân lương, không nỡ phung phí của dân, khiến người Tần không nén nổi mừng vui, chỉ sợ Lưu Bang không thể là Tần vương. Lưu Bang chơi nước cờ rất cao tay, sánh với lúc Hạng Vũ vào Hàm Dương đã cho quân sĩ cướp bóc giết người, đốt trụi thành trì trong suốt ba tháng, rõ ràng Lưu Bang càng được lòng dân.
Lưu Bang kìm nén dục vọng, kìm nén cả tình cảm. Năm 203 trước Công nguyên, Hàn Tín hạ xong hơn bảy mươi thành của nước Tề, có vùng đất rộng lớn như vậy, đô thành đều là địa bàn của Hàn Tín. Có một vốn liếng lớn như vậy, Hàn Tín muốn mặc cả với Lưu Bang. Hàn Tín cho người cầm thư tới chỗ Lưu Bang, nói người Tề hay mưu mẹo biến đổi, Tề là nước luôn luôn phản phúc, phía nam lại liền với nước Sở. Nếu không lập ngay một ông vua giả để trấn giữ thi e tình thế sẽ không yên. Lúc này Lưu Bang đang bị quân lính Hạng Vũ vây khốn ở Huỳnh Dương, Thái công và Lã thị đang trong tay Hạng Vũ, tức giận đầy bụng không biết xả đi đâu. Lưu Bang vừa thấy sứ giả mang thư đến, lửa giận lại bùng lên thành lời: Đồ khốn! Lão bị khốn ở đây, ngày ngày chờ người đến cứu, nay ngươi lại muốn làm Tề vương giả! Lưu Bang lớn tiếng mắng tiếp, Trương Lương và Trần Bình biết lúc này không nên đắc tội với Hàn Tín, liền đạp vào chân Lưu Bang làm ám hiệu Lưu Bang lại mắng: Rõ là một lũ chẳng ra gì! Nam tử hán đại trượng phu, lấy công dựng nghiệp, bình định chư hầu, vua thật phải như vậy, vì sao lại phải làm vua giả! Đó chính là công phu tuỳ cơ ứng biến, về điểm này Hạng Vũ không làm được. Hạng Vũ cũng không biết kìm nén bản thân. Nếu việc này rơi vào tay Hạng Vũ, chắc Hạng Vũ chẩng nói nửa lời, cho chém người luôn, hơn nữa còn tự tay đi giết Hàn Tín.
Đây không phải là vấn đề tính cách. Chẳng ai có sẵn tính “nhẫn”, do bức bách mà phải “nhẫn”. Có hai loại nhẫn. Một loại là không thể không nuốt giận vào trong khi đứng trước cường quyền bạo ngược, nói đó là nhẫn nại, chẳng thà nói đó là không biết làm sao. Đánh thì không đánh được, liều mạng thì không đủ sức, không nhẫn thì biết làm gì? Như vậy không thể coi là nhẫn. Nhẫn đúng nghĩa là muốn làm việc gì đó và có khả năng làm được nhưng nhẫn nhịn không làm. Như muốn chiếm của cải, cung nữ trong cung Tần và có thể chiếm được, nhưng đã tự động bỏ đi, làm được như vậy không phải dễ. Rõ ràng đây mới là nhẫn thực sự. Tức là, bản thân chiến thắng bản thân, tự mình xuống tay với chính mình. Phía trên chữ nhẫn là chữ đao, là cầm dao rạch vào tim mình! Một người có thể xuống tay với chính mình, chắc chắn không run tay khi đối phó với người khác. Vì vậy, người biết nhẫn nhịn là người có trái tim sắt. Lưu Bang có trái tim sắt. Một lần quân Sở truy kích Lưu Bang, để có thể thoát thân, Lưu Bang đã đẩy con trai, con gái của mình xuống xe. Người phu xe là Hạ Hầu Anh ba lần ôm chúng lên xe và lại ba lần Lưu Bang đẩy chúng xuống. Hạ Hầu Anh không chịu nổi, nói: Việc tuy gấp, nhưng vẫn có thể cho xe chạy nhanh hơn mà? Sao có thể bỏ mặc chúng? Lúc này Lưu Bang mới trốn chạy cùng với hai con. Người xưa nói, hổ dữ không ăn thịt con, hẳn phải là người quá độc ác, tàn nhẫn mới dám vứt bỏ con ruột của mình.
Vì vậy, lúc Phạm Tăng phát hiện thấy một kẻ ham tài hiếu sắc như Lưu Bang, khi vào Hàm Dương không tơ hào một thứ gì, Phạm Tăng mới hiểu đây là kẻ thù cực kỳ hung hãn tàn nhẫn, nếu không sớm trừ đi, tất sẽ mang hoạ nuôi hổ dữ. Đáng tiếc, lúc đó có nhiều người không nhìn ra điểm này, kể cả Hạng Vũ lẫn Hàn Tín.
Chú thích



(1) Tống Nghĩa: Lệnh doãn nước Sở cũ, thích bàn chuyện binh. Nghĩa từng dự đoán Hạng Lương thất bại, bất hạnh; điều đó chứng tỏ Tống Nghĩa biết quan sát, không hề chứng minh là Tống Nghĩa biết chỉ huy. Sau khi làm thống soái, Tống Nghĩa có sai lầm về chiến lược, còn tự cho là đúng, còn dán bố cáo nói: “Mạnh như hổ, ác như sói, tham như dê, ai không nghe sẽ bị chém đầu”, kết quả đã bị Hạng Vũ chém.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptySat Jul 05, 2014 12:39 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
HẠNG VŨ
- 3 -
Sai lầm của Hàn Tín!
Hàn Tín cũng bị Lưu Bang giết, cho dù Lã hậu là người trực tiếp ra tay, cho dù vì việc đó Lưu Bang đã phải nhẫn nhịn rất lâu.
Hàn Tín là một người rất thú vị, gần như một nửa là Lưu Bang, một nửa là Hạng Vũ. Giống như Lưu Bang, Hàn Tín biết nhẫn nhịn. Đình trương Nam Xương ghét bỏ, giày vò Hàn Tín, Hàn Tín nhẫn nhịn. Phiếu mẫu giặt lụa thương hại, quở trách Hàn Tín, Hàn Tín nhẫn nhịn. Sau này, dân chợ búa lưu manh ở huyện Hoài Âm cố ý làm nhục Hàn Tín, Hàn Tín nhẫn nhịn, còn chui qua háng lũ lưu manh, làm thành chuyện cười nhục nhã khắp đường phố. Nhục nhã như vậy mà phải nhẫn nhịn, thực không dễ. Liệu có người đàn ông chân chính nào chịu được sự nhục nhã như vậy không? Ngay cả Hàn Tín đã có mấy lần tưởng không thể nhịn được. Tư Mã Thiên nói, Hàn Tín nghe tên lưu manh nói xong “cứ nhìn mãi”, có lẽ lúc đó đang đấu tranh tư tưởng dữ lắm! Nhưng cuối cùng, Hàn Tín vẫn nhẫn nhịn. Rõ ràng, nhẫn không phải là sợ. Bá Dương nói rất hay: Vỡ gan nát ruột, thực lòng khuất phục, là kẻ nô tài tê liệt. Trước khi nhảy cao biết co gối lại, đó là anh hùng hào kiệt. Nếu như vừa thách thức, đã vội tức giận xông lên cắn một miếng, chết cũng không buông, đó chỉ là con cua. Hàn Tín không phải cua mà là anh hùng. Chính vì vậy, Hàn Tín mới có tư cách phê phán Hạng Vũ là “dũng của thất phu”. Vì Hàn Tín biết, vừa bị bọn lưu manh thách thức, Hạng Vũ đã không chịu nổi, chắc sẽ nhảy lên, cho một quả đấm vào mũi bọn lưu manh.
Hàn Tín có thể nhẫn nhịn, vì “chí khí cũng không nhỏ”. Trong tình thế lúc bấy giờ, Hàn Tín chỉ có hai cách lựa chọn: Rút kiếm giết chết thằng nhãi đó hoặc chui qua háng hắn. Nhưng giết hắn thì phải đền tội và những gì là chí hướng cũng sẽ mất luôn. Vì vậy, Hàn Tín quyết định nhẫn nhịn, về điểm này thật giống với Lưu Bang. Nghĩ xem, Lưu Bang đồng ý phong Hàn Tín là Tề vương, ngang với liên minh dưới thành, chẳng phải đã chịu nhục chui qua háng hay sao? Chính vì họ đều có thể nhẫn nhịn, nên Lưu Bang, một kẻ tay trắng trở thành đế vương dựng nên triều Hán huy hoàng, Hàn Tín một kẻ bị ruồng bỏ đã trở thành danh tướng thời Tần Hán. Dương Chí trong truyện “Thuỷ hử” không biết nhẫn nhịn đã giết chết Ngưu Nhị, cuối cùng thì sao? Đành phải lên núi làm giặc.
Nhưng, Hàn Tín tuy không có cái “dũng của thất phu”, song lại có lòng nhân của đàn bà.
Vào giai đoạn cuối cuộc giao tranh giữa Hán Sở, địa vị Hàn Tín vô cùng đặc biệt. Nói như Vũ Thiệp thuyết khách của Hạng Vũ: “Lúc này túc hạ nắm quyền của hai vua, túc hạ bước sang phải, Hán vương thắng, bước sang trái Hạng vương thắng”. Nói như Khoái Thông, biện sĩ của nước Tề thì: “Lúc này mạng của hai vua nằm trong tay túc hạ. Túc hạ vì Hán, Hán thắng, vì Sở, Sơ thắng”. Tóm lại, Hàn Tín trở thành lực lượng thứ ba ngoài Lưu và Hạng, như vậy, ý kiến của Vũ Thiệp và Khoái Thông là giống nhau, Hàn Tín cần phải giữ thế trung lập, không giúp đỡ ai, để cùng với Lưu Bang, Hạng Vũ chia ba thiên hạ, thành thế chân vạc. Nếu kiến nghị đó được chấp nhận, tất đã có truyện “Tam Quốc diễn nghĩa”, đâu phải chờ đến màn diễn của các vị Tào Tháo, Lưu Bị và Tôn Quyền.
Nhưng lão nhà quê được ví như Tôn Quyền kia lại không có khí phách của Tôn Quyền. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng không thể hạ quyết tâm phản lại Lưu Bang - Hàn Tín hàm ân Lưu Bang nên không nỡ phản lại. Hàn Tín nói với thuyết khách của Hạng Vũ: Ban đầu tôi phụng sự Hạng vương, là quan Lang trung, chuyên vác kích đứng, nói không ai nghe, kế không ai theo, nên mới phản Sở về với Hán. Hán vương trao ấn đại tướng quân, cho mấy chục vạn binh mã, còn cởi áo ban cho, bát cơm sẻ nửa manh áo chia đôi, nghe theo kế sách, mới có được Hàn Tín ngày nay. Một người đã tin yêu, tín nhiệm Hàn Tín, nay phản lại người đó, hay ho gì?
Hàn Tín nghĩ mình có công với Hán vương, cuối cùng sẽ không đến nỗi thỏ chết thì giết chó săn. Nên cuối cùng thì thấy “không nỡ”. Không nỡ, chính là lòng nhân của đàn bà. Thế rồi, Hàn Tín, người có lòng nhân của đàn bà đá bị Lã hậu, người đàn bà bất nhân đó giết chết.
Thực ra thì Lưu Bang đã muốn trừ bỏ Hàn Tín từ lâu. Tôi luôn ngờ rằng, Lưu Bang có thực sự thích Hàn Tín không? Qua những câu chuyện về Hàn Tín, dường như Hàn Tín chưa bao giờ là một người được người khác yêu mến. Sách “Sử ký” nói, lúc Hàn Tín còn nghèo khổ, thường bị “nhiều người chán ghét”. Nguyên nhân Hàn Tín bị nhiều người ghét bỏ được cho là, thời đó Hàn Tín không được tiến cử làm quan, lại không thể làm nghề buôn bán, suốt ngày nhàn rỗi lêu lổng, ăn đậu ở nhờ. Nhưng thời đó có vô khối người như vậy, sao mọi người chỉ ghét bỏ một mình Hàn Tín? E rằng tính cách Hàn Tín ít nhiều có phần gàn dở? Ngay như khi đinh trưởng Nam Xương kiếm cớ đuổi cổ Hàn Tín, Hàn Tín đã một mình chạy ra bờ sông câu cá, không hề tụ tập với lũ chợ búa lưu manh khác ăn uống đập phá. Rõ ràng, Hàn Tín không phù hợp với đám đông.
Hàn Tín hợp với ai? Quý tộc không, lưu manh cũng không. Hàn Tín thân phận hèn kém, nhưng nội tâm lại rất cao quý. Đó cũng là nguyên nhân khiến Hàn Tín không thể cùng cánh với Lưu Bang, Hạng Vũ. Hạng Vũ xem thường xuất thân của Hàn Tín, Lưu Bang lại không thích cái vẻ quý phái trên con người Hàn Tín. Điều đó khiến Hàn Tín không thể phù hợp được với bất kỳ người nào. Năm 201 trước Công nguyên, Lưu Bang lên ngôi hoàng đế chưa lâu, có người báo Hàn Tín mưu phản. Lưu Bang hỏi chư tướng bên cạnh, nên làm thế nào? Chư tướng liền đồng thanh nói: Lập tức xuất binh, chôn sống thằng nhãi này! Rõ ràng quân Hán không mấy thiện cảm với Hàn Tín. Nguyên nhân từ đâu? Có thể vì hầu hết những kẻ khác đều ngu muội, Hàn Tín là người có đầu óc, lại cậy tài ngạo mạn, tự cho mình là cao minh, còn thích tìm tòi nghiên cứu. Tôi tin rằng, Hàn Tín thích ngồi một mình trầm tư suy nghĩ, không hề thích cùng lũ vô lại rượu chè trai gái, kể những chuyện tục tĩu, bằng không Hàn Tín đã chẳng có những ý kiến độc đáo về cục diện chiến tranh, về tình thế đất nước. Hàn Tín vừa xuất hiện, đã nhiều lần hiến kế sách cho Hạng Vũ; qua một buổi nói chuyện, Lưu Bang tâm phục khẩu phục, hận là gặp nhau quá muộn. Từ đâu mà có được những mưu kế đó? Tất nhiên, không phải là tự nhiên mà có! Một người suốt ngày chỉ nghĩ đến công việc, tất sẽ có lúc như ngớ ngẩn, xa lánh mọi người. Mọi người không thích người như vậy, nhất là phường lưu manh vô lại và hung hăng cậy khỏe cả ngày chỉ cười cợt chót nhả, nói nhăng nói cuội. Nếu Hàn Tín là công tử vương tôn, là con nhà bút nghiên lại đi một nhẽ, đàng này chỉ là kẻ ăn xin vừa tự cho là thanh cao, vừa là kẻ lười biếng, liệu có ai thích loại người này? Bọn chợ búa lưu manh không làm nhục người khác mà tìm đến gây sự với Hàn Tín, bởi Hàn Tín là kẻ đáng ghét nhất.
Lưu Bang vốn xuất thân từ lưu manh, đương nhiên không thích Hàn Tín. Mặc dù vì nhu cầu chính trị, Lưu Bang phải trọng dụng Hàn Tín, mặc dù chỉ sau một buổi trò chuyện, Lưu Bang “tự thấy gặp nhau quá muộn”, nhưng vừa vào tới quân doanh Hàn Tín đã giơ tay đòi quan đòi quyền, hơn nữa còn yêu sách, không là đại tướng quân thì không làm, điều đó khiến Lưu Bang không vui, lưu lại một vệt đen trong lòng. Không có vị lãnh đạo nào lại thực lòng thích thuộc hạ quá cao ngạo, dù họ có chân tài thực học đến chừng nào. Càng không có vị lãnh đạo nào lại vui vẻ khi bị thuộc hạ thừa cơ đánh hôi một gậy, dù họ đã lập được bao nhiêu công trạng. Có thể khẳng định rằng lúc Hàn Tín yêu cầu được làm Tề vương giả, Lưu Bang tất đã muốn giết Hàn Tín, có điều không để lộ ra. Vì Lưu Bang biết nhẫn nhịn. Vì cái gọi là “đại nghiệp” của mình, Lưu Bang có thể nhẫn nhịn tất cả.
Đương nhiên, lúc Lưu Bang nhận thấy không thể nhịn được nữa, thì sự việc lại khác.
Lưu Bang đã từng bước từng bước loại bỏ Hàn Tín theo mưu kế định sẵn.
Chẳng bao lâu sau khi Hàn Tín đem quân giúp Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, Lưu Bang đã bất ngờ cướp hết binh quyền của Hàn Tín (Hạng Vũ bị phá, Cao Tổ tập kích đoạt quân của Tề vương), sau đó mượn cớ “Nghĩa đế không có con nối dõi, Tề vương Hàn Tín phải theo phong tục nước Sở” để đẩy Hàn Tín đến Hạ Phì (nay là thành phố Phi Châu, Giang Tô) làm Sở vương. Trước đây Lưu Bang đã từng làm việc này. Vào một sáng sớm, Lưu Bang xưng là Hán sứ, phóng ngựa xông thẳng vào quân doanh, nhân lúc Hàn Tín và Triệu vương Trương Nhĩ còn ngủ, Lưu Bang vào phòng đoạt lấy ấn phù, điều binh khiển tướng, Hàn Tín và Trương Nhĩ kinh hoàng thất sắc. Lần này lại diễn vở đó, nhân lúc đi đánh nước Lỗ, Lưu Bang cho quân “quay lại Định Đào, vào doanh trại Tề vương, đoạt lấy quân”. Đã có bài học lần trước, tưởng Hàn Tín đã phải nghĩ đến màn diễn lần này của Lưu Bang. Sau hai lần bị đột kích bất ngờ, lẽ ra Hàn Tín phải cảnh giác. Đáng tiếc, Hàn Tín lại không cảnh giác.
Sau khi phải đến Hạ Phì làm Sở vương, Hàn Tín bắt đầu một cuộc sống thoải mái khoáng đạt. Hàn Tín vốn là người Sở. Người Sở làm Sở vương, giống như áo gấm về quê. Hàn Tín không oán trách gì về việc điều động này. Hàn Tín tìm được Phiếu Mẫu, người đã cho Hàn Tín cơm bên bờ sông năm đó, Hàn Tín ban tặng ngàn vàng để báo đáp, coi như đã thực hiện lời hứa “con sẽ báo đền ơn mẹ”. Hàn Tín cũng tìm được viên đinh trưởng Nam Xương, người trông coi việc ăn uống, về sau lại đuổi cổ Hàn Tín ra khỏi cửa. Hàn Tín thưởng trăm tiền và có lời giáo huấn: Ngươi là kẻ tiểu nhân, làm việc tốt lại không làm đến cùng. Hàn Tín cũng tìm được tên lưu manh năm xưa bắt Hàn Tín chui qua háng để làm nhục Hàn Tín. Thực ngoài sức tưởng tượng, Hàn Tín không những không trả thù, còn cho hắn làm trung uý chuyên tuần tra bắt cướp. Hàn Tín giải thích với mọi người, đây là một chàng trai, năm đó hắn làm nhục ta, chẳng nhẽ ta không giết nổi nó? Có điều, hắn là kẻ vô danh, nên ta đã nhịn. Hiển nhiên lúc có thể giết, ta đã không giết, lúc này chẳng có lý gì, càng chẳng có cớ gì để giết hắn. Nếu lúc đó không giết, bây giờ lại giết, hoá ra lúc đó ta không dám giết, lúc đó ta nhu nhược, mới phải chui qua háng thằng nhóc này! Không nghi ngờ gì, lúc đó ta không giết tức là lúc đó ta không sợ. Hàn Tín rất thông minh.
Trên thực tế, giết thằng nhãi đó, không những vô ích mà còn có hại. Lúc Hàn Tín nhục nhã, phải chui qua háng, là lúc cả hai bên bình đẳng, đều không có địa vị xã hội, nếu Hàn Tín xông lên chống lại, thì dù thắng hay thua, mọi người sẽ đồng tình. Bây giờ thì khác, Hàn Tín được phong vương bái tướng, trên mọi quần thần, thằng nhãi đó vẫn như xưa, vẫn là dân kẻ chợ vô lại, địa vị hai bên khác biệt, một trời một vực. Lúc này giết hắn dễ như trở bàn tay, nhưng chẳng có ý nghĩa gì, ngược lại mọi người sẽ có cảm giác Hàn Tín lấy lớn ức hiếp nhỏ, lấy mạnh làm nhục yếu, thực chẳng ra sao. Nhưng lấy ân báo oán, sẽ được tiếng là khoan dung đại lượng, dư luận đồng tình. Còn kẻ thoát chết kia, suốt đời ghi nhớ ân đức, luôn luôn ca ngợi Hàn Tín, Hàn Tín lại được lòng dân. Hơn nữa, “có oán báo oán, có ân báo ân” là lẽ thường của nền văn hoá Trung Quốc, nay Hàn Tín lại lấy ân báo oán, để chứng minh rằng năm đó Hàn Tín không hề bị nhục, vết nhơ đã được rửa sạch, thực hợp tình họp lý.
Hàn Tín không giết dân chợ búa vô lại kia, không có nghĩa là Lưu Bang không giết Hàn Tín.
Tình trạng của Hàn Tín khác với tên vô lại. Tên vô lại không có năng lực, không có địa vị, Hàn Tín cho sống hắn được sống, cho chết hắn phải chết, giết gà đâu cần đến dao mổ trâu. Hàn Tín thì lại khác. Thực tình, Hàn Tín đã là mối uy hiếp của Lưu Bang. Khoái Thông đã từng nói với Hàn Tín: “Kẻ dũng lược át cả chủ nhân thì thân nguy, kẻ công lao trùm thiên hạ thì không được lâu”. Có nghĩa là, một viên quan mà tài trí, năng lực, công lao đều vượt trội thì khó mà giữ được tính mạng. Vì sao vậy? Vì đó là quan hệ vua tôi quân thần. Đúng như Hàn Phi Tử nói, “Chủ bán quan tước, thần bán trí lực”. Quan hệ đôi bên có duy trì được hay không còn tuỳ thuộc ở quan tước trong tay vua chúa còn đủ dùng không và trí lực của bầy tôi phải luôn luôn thiếu hoặc đôi bên đều phải có đất dụng võ. Nếu một bầy tôi nào đó, trí lực công lao đều đã tột đỉnh thì còn gì để buôn với bán? Sau đó, chỉ còn nước mời quân chủ nhường lại chiếc ngai vàng của mình. Bất kỳ một vị vua chúa nào, chỉ cần có chút đầu óc và năng lực sẽ không tiếp nhận điều đó. Quan hệ của Lưu Bang và Hàn Tín là như vậy. Vì thế Lưu Bang không thể không loại bỏ Hàn Tín.
Có điều Lưu Bang muốn làm việc đó một cách từ từ, từng bước từng bước một, không muốn Hàn Tín phải chết ngay. Vào năm thứ hai sau khi Hàn Tín là Sở vương, Lưu Bang giả vờ là thiên tử đi tuần thú, tuần du Vân Mộng, từ Lạc Dương đến Trần Khâu (nay là huyện Hoài Dương, Hà Nam), trong số chư hầu nghênh đón ở hai bên đường đã bí mật tập kích bắt sống Hàn Tín, lý do có người mật báo Hàn Tín mưu phản. Sự thực không phải thế. Muốn phản tốt nhất là phản lúc làm Tề vương, việc gì phải đợi tới hôm nay? Lưu Bang cũng rõ đó là sự vu cáo, nhưng Lưu Bang không bỏ qua cơ hội này, Hàn Tín bị trói, bỏ lên xe chơ về Lạc Dương. Vừa đến Lạc Dương Lưu Bang liền tuyên bố đại xá thiên hạ, đồng thời “xá miễn” luôn cho Hàn Tín, nhưng giáng làm Hoài Ảm hầu, cũng không cho Hàn Tín đi nhậm chức ở đất phong mà giữ lại trong triều với ý là “xử lý rộng rãi, chờ xem kết quả”.
Lưu Bang làm vậy là có lý của mình. Lưu Bang hiểu rõ, đấu tranh chính trị đúng mực phải “có lý, có lợi, tùng bước một”. Lúc này giết Hàn Tín thì chưa đủ lý do, khiến quần thần lo lắng, tự thấy không nỡ. Sau này, Hàn Tín quả nhiên hợp mưu cùng Trần Hy phản Hán, Lã hậu theo kế của Tiêu Hà đã bí mật bắt giết Hàn Tín. Lưu Bang từ chiến trường về biết tin đã có phản ứng “vừa mừng vừa thương!”. “Vừa mừng vừa thương” chính là tâm sự thực của Lưu Bang. Tình cảm của Lưu Bang đối với Hàn Tín rất phức tạp. Lưu Bang tuy rất hận, rất ghét Hàn Tín, nhưng nhiều lúc cũng thích, cũng quý Hàn Tín. Rõ ràng Hàn Tín là bầy tôi có công, là người có tài, nếu không cần thiết, tốt nhất là không giết. Huống hồ Hàn Tín đã nhiều năm cầm quân, có uy tín nhất định, có một số tâm phúc. Tự nhiên giết Hàn Tín, làm không khéo sẽ có binh biến. Vì vậy Lưu Bang mới quyết định, hãy chờ đã, phải xem xét kỹ.
Đúng vậy, Lưu Bang không thể không lo lắng về Hàn Tín. Trong lúc có người bẩm báo Hàn Tín mưu phản, các tướng đồng thanh yêu cầu “lập tức xuất binh, chôn sống thằng nhãi đó”, Lưu Bang chưa tỏ thái độ ngay, bỏ đi thương lượng với Trần Bình. Trần Bình hỏi: Quân của bệ hạ tinh anh hơn quân của Hàn Tín không? Lưu Bang nói: Không sánh kịp. Trần Bình lại hỏi: Tướng của bệ hạ có mạnh hơn tướng của Hàn Tín không? Lưu Bang nói: Sao sánh bằng. Trần Bình nói: Quân không tinh bằng người ta, tướng không mạnh bằng người ta, lại muốn cất quân đi đánh nhau, như vậy là đẩy người ta vào con đường làm phản. Sau đó mới bàn kế sách bí mật bắt Hàn Tín. Có thể thấy Lưu Bang có sự dè chừng với thực lực của Hàn Tín và cũng chưa hiểu hết tâm lỵ của Hàn Tín.
Nhưng ngay trong lúc này, Hàn Tín đã làm một việc ngốc nghếch. Trong lúc Lưu Bang giả vờ là “thiên tử đi tuần thú”, cùng một số ít người ngựa xuống phía nam, lúc gần đến biên giới nước Sở, Hàn Tín có phần hoảng loạn. Hàn Tín có cảm giác ở đây có điều gì lạ lùng, nhưng lại nghĩ không ra. Vì vậy Hàn Tín không biết phải đối phó thế nào: Cất quân tạo phản, nghĩ đi nghĩ lại, tự thấy chẳng có chỗ nào sai, chắc gì hoàng thượng đem quân đánh mình. Tự mình đến bái kiến, lại cảm thấy “người đến thì không tốt, người tốt sẽ không đến”, không khéo sẽ bị bắt ngay. Lúc đó có người đưa ra ý kiến xuẩn ngốc: Hoàng thượng hận nhất Chung Lỵ tướng quân, nếu đem đầu tướng quân đến bái kiến hoàng thượng, hẳn hoàng thượng sẽ rất vui, chúng ta sẽ được bình an vô sự. Tướng quân Chung Ly tức là Chung Ly Muội, là danh tướng nước Sở, cũng là anh em son sắt với Hàn Tín. Sau khi Hạng Vũ chết, Chung Ly Muội hết chỗ chạy, đành phải trốn ở chỗ Hàn Tín.
Lưu Bang có thù với Chung Ly, đã xuống chiếu tìm bắt, Chung Ly lại được Hàn Tín bảo vệ. Nhưng lần này để bảo vệ mình, Hàn Tín quyết định lấy đầu người bạn tốt dâng công lĩnh thưởng, khôn khéo lấy lòng. Chung Ly Muội hay tin Hàn Tín sẽ lấy đầu mình, đã giận dữ phẫn nộ đến cực điểm, la mắng Hàn Tín vong ân bội nghĩa, là giống chẳng ra gì. Nhưng biết làm sao? Chỉ biết trách mình có mắt như mù, đã kết giao với loại “bạn” như vậy. Muội có nghĩa là “mắt không sáng”. Thực không hiểu vì sao cha mẹ lại đặt tên như vậy, rõ ràng là lời sấm. Một người mắt mù, một người tâm đen đã làm nên một thảm kịch.
Nhưng tiếc là Hàn Tín đã tính nhầm. Lưu Bang vốn hận Chung Ly và hận cả Hàn Tín. Cái mà Lưu Bang cần là thống nhất thiên hạ, là ngôi vị hoàng đế của con cháu họ Lưu bền vững muôn đời, đâu chỉ có cái đầu của Chung Ly? Hàn Tín đã bán rẻ bè bạn, Lưu Bang không hề cảm kích, chỉ nhếch miệng cười, sau đó đã thét lớn: Tả hữu bắt lấy hắn! Đường đường là Sở vương, lập tức đã bị hạ ngục. Hàn Tín không phục, cao giọng la hét: Ta có tội gì? Lưu Bang nói: Có người tố cáo nhà ngươi mưu phản. Nói xong, liền sai người trói Hàn Tín ném lên xe. Hàn Tín ngửa cổ than với trời xanh: “thỏ chết thì giết chó, chim hết thì bẻ cung, phá xong địch thì mưu thần chết”. Lúc này thiên hạ đã định, ta phải chết! Lưu Bang quay đầu lại nói: Đừng phí lời! Ngươi tưởng ý đồ mưu phản của ngươi chưa bại lộ sao?

Thực tình thì lúc đó Hàn Tín bị oan. Nhưng nghĩ kỹ lại thì không oan. Lẽ ra Hàn Tín phải sớm nghĩ ra chiêu này của Lưu Bang. Thỏ chết thì giết chó, chim hết thì bẻ cung, công cao hơn chủ thì cái chết đã gần kề, đạo lý đó không phải Hàn Tín không biết, Vũ Thiệp, Khoái Thông cũng đã nói rất rõ: Không thể dựa vào Lưu Bang. Trong đấu tranh chính trị cũng không dựa vào cái gọi là chiến hữu thân thiết, đầy tình đầy nghĩa. Vũ Thiệp nói, con người Lưu Bang có nhiều dã tâm, có ít phẩm hạnh. Đã nhiều lần Hạng Vũ nắm hắn trong tay, nhưng vì thương hại mà không nỡ giết, sau khi đã thoát hiểm, Lưu Bang quay đầu cắn trở lại, một người mất tín nhiệm, không thể gần đến dường ấy, sao ngài vẫn cứ tin tưởng? Nói cho ngài hay, sở dĩ ngài còn sống được đến hôm nay là nhờ vào sự tồn tại của Hạng Vũ. Nay Hạng Vũ đã mất thì ngày mai sẽ đến lượt ngài! Khoái Thông cũng nói, đừng bao giờ tin vào cái gọi là tình nghĩa giữa quân thần. Văn Chủng, Phạm Lãi phò tá Việt vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật, trả thù rửa hận đánh bại Ngô vương, dựng nên nghiệp bá, ngày lập công thành danh đó, cũng là ngày họ phải chết(1). Lời nói quá rõ ràng, tiếc là Hàn Tín không để lọt tai, nên mới có hôm nay.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptySat Jul 05, 2014 12:55 pm

Nếu nói, lòng nhân của đàn bà làm Hàn Tín mất hết cơ may, vậy, lòng dạ tiểu nhân đã khiến Hàn Tín phạm sai lầm lớn. Việc Hàn Tín bán bạn cầu vinh là sai về mặt đạo đức, biến mình thành tội đồ. Chúng ta đều biết, Hàn Tín vốn chẳng có tội tình gì. Hàn Tín chiến công hiển hách, Lưu Bang muốn giết Hàn Tín, tất sẽ bị chê trách về mặt đạo nghĩa. Bây giờ thì tốt rồi, Lưu Bang có thể thẳng tay mà giết. Bởi vì người Lưu Bang muốn giết không phải là anh hùng gian khổ công cao mà là kẻ tiểu nhân vong ân bội nghĩa, giết công thần là phạm tội, giết tiểu nhân là việc nên làm. Ở Trung Quốc, người gọi là “tiểu nhân” là người gần như ai ai cũng muốn giết. Vì vậy việc làm của Hàn Tín vô tình đã giúp Lưu Bang rửa sạch trách nhiệm mặt đạo đức và đưa mình đến pháp trường.
Thứ hai, Hàn Tín bợ đỡ muốn lấy lòng, như vậy là lòng dạ đen tối, lại thua về mặt tâm lý. Lưu Bang ít nhiều có tính dối trá, thừa biết việc Hàn Tín mưu phản là vu cáo, cũng biết rõ vừa thắng lợi đã giết công thần là không hay. Bây giờ thì Lưu Bang đàng hoàng và đầy khí thế. Chẳng phải là Hàn Tín ngươi muốn mưu phản sao? Bằng chứng thép là việc người che giấu Chung Ly Muội! Nếu nói không mưu phản, chỉ là tình nghĩa bè bạn thì sao ngươi lại phải sợ. Lúc này lại chủ động mang thủ cấp hắn đến dâng, điều đó chỉ có thể nói rõ ngươi lòng ma dạ quỷ, việc không xong liền giết người diệt khẩu! Kết quả người vô tội thành người có tội, kẻ dối trá lại trở thành trong sạch, Hàn Tín làm vậy khác gì để chủ nắm chuôi, tự tạo ra tang chứng, vật chứng?
Thứ ba, Hàn Tín chủ động khuất phục, nói rõ bản thân có sai lầm, thế là sai về mặt chiến thuật. “Hai quân giao tranh, kẻ mạnh sẽ thắng”. Hàn Tín chột dạ, mới vờ can đảm như Lưu Bang. Lưu Bang vốn có chút sợ Hàn Tín, bây giờ thì hết sợ. Thì ra, đại tướng quân Hàn Tín cầm trăm vạn đại quân, đã đánh là thắng, đã phá là vỡ, cũng chỉ là thế mà thôi! Nhìn bề ngoài Hàn Tín thần khí oai phong, nhưng bên trong lại rất nhu nhược. Chỉ cần Lưu Bang nói một tiếng “tuần thú phương nam” hắn đã vãi đái, vội vàng bán cả người anh em son sắt của mình. Loại người này còn không trừng trị được sao?
Rõ ràng, Hàn Tín bán đứng bạn bè, không những không giữ được mạng mình mà còn mất nhanh hơn.
Lúc này Hàn Tín như cá trên thớt, chỉ còn chờ Lưu Bang xuống tay.
Lưu Bang lại không vội.
Trong những ngày Hàn Tín gần như bị giam lỏng, Lưu Bang thường đến trò chuyện. Họ vui vẻ thoải mái bàn về tài năng khác nhau của các vị tướng, mỗi người có một quan điểm khác nhau. Một lần Lưu Bang hỏi Hàn Tín: Như quả nhân đây cầm được bao nhiêu quân? Hàn Tín nói: Không thể hơn được mười vạn. Lại hỏi: Còn túc hạ thì sao? Hàn Tín nói: Càng nhiều càng tốt. Lưu Bang cười: Được rồi được rồi, càng nhiều càng tốt, nhưng sao lại để ta tóm được? Hàn Tín nói: Bệ hạ không giỏi việc quân, nhưng giỏi việc tướng (giỏi chế ngự tướng lĩnh). Đó là nguyên nhân Hàn Tín không đấu được với bệ hạ. Hơn nữa bệ hạ là thiên tài, làm gì có chuyện nhân tài sánh kịp (bệ hạ có sức trời ban, không phải là sức người).
Hàn Tín nên nghĩ lại, có thể nói tới mức ấy sao?
Gọi là “trời ban” là chỉ “thiên tử” (quân quyền thần ban), hay là “thiên tài” (thông minh trời cho), có thể chưa nói tới, nói tới “cầm tướng” thì đáng phải suy ngẫm. Đúng là Lưu Bang giỏi cầm tướng và đúng là có tư thế người lãnh đạo. Thực ra, cách cầm tướng cũng không khó, chẳng phải là biết người, khéo dùng người, thêm vào đó là ân uy phân minh. Vì vậy, nên hiểu rằng “trọng thưởng tất sẽ có dũng phu”, cũng nên hiểu thêm “giết một để răn mười”. Dù là thưởng cũng được, phạt cũng được, khi đáng ra tay thì ra tay, không thể hẹp hòi, cũng không thể mềm lòng. Vì vậy, trong quá trình cầm tướng, không thể không giết gà doạ khỉ. Còn Hàn Tín chỉ là một con gà trống lông tía biết gáy mà thôi. Giết hay không giết, còn phải xem xem khỉ có nhảy không, gà trống có ngoan không.
Tiếc là Hàn Tín không nghĩ đến điều này, gần như không hề để tâm đến, Lưu Bang đang trong tình trạng khó xử, giết hay không nên giết mình. Không giết, đó là mối hậu hoạ; giết, chưa thể xuống tay ngay được. Nếu lúc này Hàn Tín chịu gác kiếm, cắm đuôi lại để làm người, thậm chí là cáo lão về quê, có thể sẽ giữ được thân. Lưu Bang giết công thần, hẳn sau này đã không có Chu Nguyên Chương tàn độc đến nhường ấy (điều đó gọi là khác thời đại). Còn Hàn Tín không hề nghĩ lại mình. Hàn Tín thường cáo bệnh không lên triều, ru rú ngồi nhà những oán cùng hờn, “thẹn vì cùng hàng với Dịch và Quán (Dịch hầu Chu Bột và Dĩnh Âm hầu Quán Anh). Một hôm Hàn Tín đến thăm Phàn Khoái, Phàn Khoái quỳ lạy nghênh đón: Đại vương vẫn còn chú ý tới tiểu thần. Ra khỏi cửa, Hàn Tín ngẩng mặt nhìn trời, cười nói, nay Hàn Tín ta cũng chỉ ngang hàng với ngươi thôi! Những lời nói hành động đó, chứng tỏ Hàn Tín không phục, bất mãn, oán hận với cách xử lý của Lưu Bang. Với Hàn Tín, đó là nỗi oan uổng, nhưng trong mắt Lưu Bang đó lại là “có bụng không thần phục”.
Đó là điều không được cho phép. Đặc điểm của nền chính trị chuyên chế là không cho phép bất cứ ai có nhân cách độc lập. Vừa không cho phép có suy nghĩ riêng, vừa không cho phép được vui buôn, giận dữ. Thế nên, hễ không thân phục là cân phái loại bỏ. Huống hồ Hàn Tín chỉ là con chuột ở nước Sở, lại dám có suy nghĩ giống mèo. Năm 196 trước Công nguyên, Trần Hy ở vùng biên phản Hán, Lưu Bang ngự giá thân chinh, Hàn Tín cáo bệnh không theo, còn cho người mang thư đến chỗ Trần Hy, hẹn sẽ làm nội ứng tại kinh thành, kết quả bị thủ hạ tố giác, sự việc bại lộ. Lã hậu nhận tin mật, liền cùng bàn với Tiêu Hà, phao tin ngoài biên ải đại thắng, Trần Hy đã chết, mời liệt hầu cùng quần thần vào cung để chúc mừng. Hàn Tín vì có ý xấu, không dám không đi, hơn nữa đây còn là thông báo của Tiêu Hà! Nói ra Tiêu Hà còn là ân nhân của Hàn Tín. Đêm trăng năm đó, nếu Tiêu Hà không đuổi theo Hàn Tín, không hết lòng tiến cử tới Lưu Bang, thì Hàn Tín làm gì có chức đại tướng quân. Đương nhiên Hàn Tín có nằm mơ cũng không thể ngờ, lần này Tiêu Hà lại giăng bẫy để bắt mình, đúng là “thành cũng từ Tiêu Hà, bại cũng từ Tiêu Hà”. Kết quả, Hàn Tín vừa vào cung đã bị võ sĩ mai phục hai bên xông ra bắt sống, sau đó Lã hậu đã xử Hàn Tín tội chết ở cung Trường Lạc. Về mặt này Lã hậu tỏ ra ác độc hơn hẳn Lưu Bang. Lúc hành sự, Lã hậu không cần hỏi ý kiến Lưu Bang, xong việc cũng không cần thông báo, không chút do dự hoặc tiếc thương, Hàn Tín chết một cách nhanh chóng gọn gàng. Cái chết đã kề bên, Hàn Tín mới thấy xót xa, vì sao ban đầu đã không nghe kế của Khoái Thông, để đến đoạn phải chết dưới tay một mụ đàn bà. Đúng vậy, Hàn Tín luôn miệng cười nhạo chê bai Hạng Vũ có “lòng nhân của đàn bà”, ngược lại không hề biết rằng mình cũng như vậy và cũng không nghĩ xem đàn bà vị tất đã có lòng nhân.
Phải nói là Hàn Tín giỏi nhìn người và cũng biết bao dung người. Hàn Tín nhìn nhận Hạng Vũ, một đao thấy máu, giải quyết nhanh gọn. Hàn Tín dùng nhu thắng cương, đã đánh bại Thành An quận Trần Dư, và cũng biết rất rõ một trong những nguyên nhân thắng lợi, là do Trần Dư không dùng kế của Quảng Vũ quân Lý Tả Xa. Vì vậy, sau khi đưa tù binh Lý Tả Xa lên xe, Hàn Tín tự đến cởi trói, còn “ngồi hướng đông, quay mặt về hướng tây, hầu chuyện”, giống như học trò cung kính ngồi nghe Lý Tả Xa chỉ giáo. Hàn Tín nhẫn nhịn nén mình, cung kính đãi người, nhẫn nhục chui qua háng người khác để thành bá nghiệp, đó đều là những điều đáng kính ở Hàn Tín. Chỗ chưa đủ ở Hàn Tín là không tự biết mình. Vì vậy, Hàn Tín biết nói về người khác, nhưng việc của mình lại mơ hồ. Hàn Tín tự cho mình là hàng hiếm giá cao, công lao không thể mất, nào ngờ một khi thiên hạ bình định, hàng hiếm lại biến thành miếng khoai tây nóng bỏng tay, công lao quá cao sẽ bị chủ ghen ghét. Vì lòng ghen tỵ và ý thức cảnh giác nên Lưu Bang đã giáng tước phong và đoạt lại đất phong của Hàn Tín. Nhưng Hàn Tín lại bỏ việc, vứt mũ từ quan, để ừ suốt ngày, nói toàn những lời quái gở, cuối cùng thì quyết định cầm kích, hòng soán ngôi đoạt quyền, đương nhiên chỉ là trứng chọi với đá, tự chuốc lấy diệt vong. Tóm lại, Lưu Bang giỏi biết mình, giỏi biết người, nên Lưu Bang đã thắng. Hạng Vũ đã không biết người, lại cũng không biết mình, nên Hạng Vũ đã thua to. Hàn Tín biết người nhưng lại không biết mình, tuy có thành công, nhưng cuối cùng đã thất bại.
Không tự biết mình thì chắc gì đã có thể biết người một cách rõ ràng. Hàn Tín lấy bụng kẻ tiểu nhân cư xử với Chung Ly Muội, lấy lòng người quân tử đối xử với Lưu Bang. Thực là trái phải lẫn lộn. Tiểu nhân ở đây không hoàn toàn chí chuyện đạo đức, còn muốn chỉ về tâm lý, tức là người hẹp hòi, thiếu độ lượng. Lưu Bang hận Chung Ly Muội, không phải Hàn Tín không biết; nếu sợ Lưu Bang trách tội thì ngay từ đầu không nên chứa chấp; nếu đã nhận thì bảo vệ tới cùng. Hàn Tín bất chấp tất cả là muốn bảo vệ bè bạn, Lưu Bang có thể làm gì đây? Cũng không làm gì cả, có thể chỉ nảy sinh ra mấy phần kính trọng và mấy phần ghen ghét. Hàn Tín không có lòng độ lượng, lại hẹp hòi, kết quả đã bán đứng bạn và bán luôn cả mình.
Chú thích



(1) Văn Chủng được Câu Tiễn ban chết. Diệt Ngô xong, Câu Tiễn ban bảo kiếm cho Văn Chủng và nói: Ngài chỉ giáo quả nhân bảy biện pháp giết người, quả nhân mới dùng ba điều đã diệt xong nước Ngô, biện pháp thứ tư này xin được thực hiện trên người ngài. Thế rồi Văn Chủng tự sát. Từ lâu Phạm Lãi đã biết sẽ có ngày này, nên thành công xong là rút lui, lén rời khỏi nước Việt, về sau trở thành một phú thương nổi tiếng (Tác giả).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyFri Jul 18, 2014 12:17 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
HẠNG VŨ
- 4 -
Sở trường của Lưu Bang
Có thể Lưu Bang không phải như thế. Con người Lưu Bang tuy chẳng có bản lĩnh gì nhưng là người dám nói dám làm. Khi còn là đinh trưởng, Lưu Bang đã từng giải phạm nhân lao dịch đến Ly Sơn, dọc đường, số người bỏ trốn không ít. Lưu Bang liền cho cởi trói tất cả phạm nhân và nói: Các ngươi đi hết đi, ta cũng sẽ đi, có gì là ghê gớm đâu! Rõ ràng, Lưu Bang chẳng coi chức hàm là gì cả, chẳng coi vương pháp là gì cả, càng không muốn giữ lại chức đinh trưởng, nên chẳng có việc gì đặc biệt mà không dám làm. Chỉ cần thấy cần làm là làm ngay, không đắn đo suy nghĩ, tính toán nhiều mà làm gì. Một người độ lượng như vậy, rõ ràng Hàn Tín không phải đối thủ.
Trên thực tế, sai lầm của Hàn Tín là hoài nghi, “cái đáng dứt không dứt, sau này thành loạn”. Sự thực thì Hàn Tín cứ do dự phản hay không phản? Lúc này tình cảm của Lưu Bang đối với Hàn Tín đang rất phức tạp. Tình cảm của Hàn Tín đối với Lưu Bang cũng rất phức tạp, vừa cảm tình, vừa oán hận, vừa xem thường, vừa sợ hãi, vì vậy, không thể quyết định phản hay không phản. Đương nhiên, Hàn Tín làm phản là do bị bức ép, Lưu Bang không bức thì không phản. Nhưng nếu nói, Hàn Tín tạo phản hay mưu phản hoàn toàn là vu cáo hãm hại thì cũng không hẳn là đúng. Cứ nhìn vào việc Hàn Tín bán đứng Chung Ly Muội thì cũng rõ, Hàn Tín không phải là loại người đáng tin cậy. Hàn Tín có thể bội phản Chung Ly Muội, sao lại không thể bội phản Lưu Bang? Có điều, lúc có điều kiện phản bội, lại không phản bội? Khi đã là cá chậu chim lồng của người ta, còn muốn hành động một cách ngu xuẩn, thế là đã hồ đồ rồi! Thực ra, vì Hàn Tín là anh hùng, không phải kiêu hùng, là nhà quân sự không phải là nhà chính trị. Hàn Tín ác độc, ti tiện đến đâu, cũng không thể sánh được với Lưu Bang. Hàn Tín luôn luôn muốn có trái tim trung hậu và ôm ấp ảo tưởng, nghĩ rằng với công lao như vậy và tình cảm tốt đẹp giữa đôi bên, Lưu Bang sẽ chẳng làm gì, kết quả không kịp đề phòng, sớm trở thành quỷ dưới lưỡi đao người khác.
Đúng vậy, trong cuộc đấu tranh chính trị tàn khốc, không cho phép do dự và hoài nghi. Ưu điểm lớn nhất của Lưu Bang là dám quyết đoán làm đến cùng, đến nơi đến chốn, không một chút hồ đồ. Lưu Bang tuy không có bản lĩnh gì, không có mưu kế gì, nhưng khả năng phán đoán lại rất tốt, dám quyết định, bất chấp tất cả. Chính nhờ có tư chất đó, nhiều lần Lưu Bang chuyển nguy thành an, cuối cùng thì chuyển yếu thành mạnh, từng bước từng bước đi tới thắng lợi. Cũng chính vì Lưu Bang là lưu manh, là anh hùng trong số lưu manh, vì thế mới dám đánh cược bằng cả sinh mạng của mình. Hàn Tín là lưu manh nhưng có khí chất quý tộc, kết quả là về mặt khí độ lại không thể sánh kịp với Lưu Bang.
Quả thực, Lưu Bang xứng với câu: “Không rộng lượng không phải quân tử, không hiểm độc không phải trượng phu”, lúc dùng người có thể phóng tay mà dùng, chỉnh trị người khác phải mạnh tay. Thủ hạ của Lưu Bang có đủ mọi loại người, Trương Lương là quý tộc, Trần Bình là du sĩ, Tiêu Hà là huyện lại, Hàn Tín là thường dân, Phàn Khoái là đồ tể, Quán Anh bán vải, Lâu Kính phu xe, Bành Việt là trộm cướp, Chu Bột là tay đánh trống. Lưu Bang coi họ như nhau, dùng theo khả năng của từng người, không quan tâm tới việc người ta gọi mình là quân tạp nham, là vua của giặc cỏ. Nhưng khi đã giết thì bất kể thân sơ. Lưu Bang nghe lời sàm tấu, cho rằng Phàn Khoái có bụng không thần phục, liền sai Trần Bình đi giết Phàn Khoái. “Bình vào trong quân, cho chém ngay Khoái!”. Có thể nói Lưu Bang và Phàn Khoái là đôi bạn tin cậy nhất, xưa kia, lúc ở huyện Bái hai người là bè bạn. Lúc Trần Thắng khởi nghĩa, Tiêu Hà, Tào Tham cho Phàn Khoái nghênh đón Lưu Bang về, lập thành Bái công. Sau này Phàn Khoái theo chân Lưu Bang đánh nam dẹp bắc, chiến công hiển hách. Lúc mới vào Hàm Dương, chính Phàn Khoái đã khuyên Lưu Bang đừng tơ hào một thứ gì và đưa quân về Bá Thượng dựng nên kỳ vọng cho Lưu Bang. Tại Hồng Môn yến, Phàn Khoái xông lên định giết Hạng Vũ mới bảo toàn được tính mạng của Lưu Bang. Phàn Khoái lấy em gái Lã hậu, với Lưu Bang là anh em cọc chèo. Như vậy Phàn Khoái là người yêu thương, gần gũi biết chùng nào, nhưng nói giết là giết (cuối cùng thì Trần Bình vẫn chưa thi hành mệnh lệnh, Lưu Bang lúc này đang bị thương nặng, việc đó coi như kết thúc). Quả thực rất ác.
Hạng Vũ không ác đến như vậy. Đương nhiên Hạng Vũ cũng giết người, hơn nữa còn giết lung tung. Chính vì giết lung tung mới là mù quáng. Mặt khác, có lúc lại không nỡ giết, đã mấy lần không giết nổi Lưu Bang. Vì vậy, chúng ta có thể đoán, nếu Hạng Vũ có được thiên hạ hẳn sẽ không bao giờ giết chết công thần, trừ những ai dám chọc giận mình. Xuất phát từ ý chí cá nhân có thể giết công thần, xuất phát từ nhu cầu chính trị, giết người một cách có kế hoạch, có mưu đồ, là không thể. Đối với Hạng Vũ, không tồn tại cái gọi là công cao hơn chủ. Liệu có ai công cao hơn Hạng Vũ đây? Liệu có ai trấn nổi Hạng Vũ một anh hùng cái thế trong thiên hạ? Không có. Ít ra, Hạng Vũ cũng cho là không có. Vì vậy, là công thần trong tay Hạng Vũ là an toàn, chỉ cần anh không chọc tức Hạng Vũ, nếu không, anh sẽ được coi là thứ cần loại bỏ để tránh bị uy hiếp sau này. Thậm chí Hạng Vũ còn không thừa nhận anh là công thần. Như vậy tuy có phần oan uổng, nhưng vẫn còn giữ được mạng sống. Dù có được coi là công thần cũng đừng lo, vì như vậy Hạng Vũ đã thừa nhận anh là anh hùng. Người anh hùng chân chính bao giờ cũng kính trọng các anh hùng khác, xuất phát từ tâm lý “anh hùng trọng anh hùng”, Hạng Vũ cũng sẽ tha cho anh một lần. Ở Hồng Môn yến, Hạng Vũ kiên quyết không giết Lưu Bang là vì có tâm lý đó.
Đương nhiên, Hạng Vũ không giết Lưu Bang có thể còn vì nguyên nhân ngược lại: Cực kỳ khinh rẻ Lưu Bang. Hắn là cái thá gì chứ! Loại chó ngựa đó cũng đáng để ta phải giết sao? Đừng làm bẩn tay ta. Chúng ta đều biết, Hạng Vũ là chúa cao ngạo, ngay từ đầu đã xem thường Lưu Bang, đó chính là một trong những nguyên nhân khiến Hạng Vũ thất bại. Hoài vương nói với chư hầu “người vào Quan Trung trước sẽ là vương”, lại phái Hạng Vũ bắc phạt, Lưu Bang nam chinh, dụng ý đã quá rõ. Tuy Hạng Vũ có đề đạt “nguyện cùng Bái công vào Quan”, là muốn báo thù cho Hạng Lương, chứ không vì sợ Lưu Bang vào Quan trước. Hội nghị liên minh chư hầu không đồng ý. Hạng Vũ đành phải thôi. Vì Hạng Vũ hoàn toàn tin rằng, gã thô kệch như Lưu Bang kia thì không đánh bại được quân Tần. Vì vậy khi nghe Lưu Bang vào Quan Trung trước, nơi “vàng bạc châu báu thứ gì cũng có”, Hạng Vũ từ chỗ ghen đã thành bực, làm ầm lên như sấm dậy. Bây giờ thì Hạng Vũ không thể không thừa nhận Lưu Bang, nhưng từ trong thâm tâm vẫn không chịu nhận Lưu Bang là anh hùng. Vì vậy Hạng Vũ không biết phải làm gì. Nếu thừa nhận Lưu Bang là anh hùng, tất phải kính yêu, không thể giết. Muốn giết, phải đường hoàng giết Lưu Bang ngoài chiến trường. Còn như bày tiệc rượu trong quân doanh rồi ngấm ngầm giết người ta thì thật mất mặt, xuống tay không nổi. Nếu Lưu Bang không phải anh hùng, thì cớ gì phải giết. Phạm Tăng đã mấy lần ra hiệu, Hạng Vũ ngồi yên không nói một lời nào; Phạm Tăng bối rối tỏ ý, Hạng Vũ “không hề phản ứng”, vì từ trong thâm tâm Hạng Vũ không thể nắm chắc nặng nhẹ. Nên cuối cùng Lưu Bang thoát khỏi miệng cọp và Hạng Vũ đã thả hổ về rừng, thật là một sai lầm lớn.
Cũng chưa hẳn, Hạng Vũ xem thường Lưu Bang nên mới không giết.
Đúng vậy, Lưu Bang là lưu manh, nhưng là anh hùng trong số lưu manh. Nói Lưu Bang là lưu manh là nói tới xuất thân của Lưu Bang, nói về sự giáo dưỡng của Lưu Bang, chưa phải là nói tới tư chất của Lưu Bang. Nói về tư chất, Lưu Bang không hổ với danh hiệu lãnh tụ. Những tố chất cần thiết của lãnh tụ, Lưu Bang đều có, căn bản không cần phải học, mà học cũng chẳng vào. Trương Lương, Trần Bình, Hàn Tín, Tiêu Hà luôn có nhiều chủ trương cho Lưu Bang, nhưng những chủ trương đó đều nhằm thẳng vào vấn đề hiện thực, hoặc là những thao tác cụ thể, là mưu lược chưa phải chiến lược. Những kiến nghị mang tính chiến lược cũng có và Lưu Bang luôn hiểu rất nhanh. Riêng óc quan sát, năng lực phán đoán, tính nhạy bén là trời ban cho Lưu Bang. Hàn Tín nói, Lưu Bang có tài “cầm tướng” là “do trời ban, không phải sức người”, nếu không trân trọng cũng đừng nên nhạo báng.
Là lãnh tụ, ưu điểm lớn nhất của Lưu Bang là “biết người”. Nói tới biết người không phải là tôn trọng người tài, giỏi dùng người tài chung chung, mà là nắm được ưu điểm, nhược điểm trong tính cách của người đó, có như vậy mới đoàn kết được mọi lực lượng, mới có thể cô lập được kẻ thù, đánh phá từng người một, cuối cùng mới giành được thiên hạ. Thiên hạ là gì? Là người, không phải là đất đai. Vì vậy được thiên hạ, cũng chính là được người, được lòng người. Lưu Bang thấu hiểu điều này. Gần như từ lúc sinh ra Lưu Bang đã biết kết giao với con người. “Tư trị thông giám”(1) viết, Lưu Bang ghét đọc sách, nhưng tư chất thông minh, lòng dạ cởi mở, có thể tiếp nhận những mưu kế tốt nhất. Thậm chí, với một kẻ gác cửa, một tên lính hạng bét khi gặp mặt Lưu Bang cũng trở thành bè bạn thân thiết. Tôi nghĩ, ngoài tính cách rộng rãi khoáng đạt, không câu nệ, chan hoà, Lưu Bang còn thấu hiểu một điều: “Mọi vật trong thế gian, con người là báu vật số một”. Vì vậy Lưu Bang coi mọi người là của cải, là tài nguyên quý giá nhất, chỉ sợ thiếu chứ không lo thừa.
Làm gì để có thể hiểu được lòng người? Cũng tức là hiểu được người khác đang muốn gì, và giúp họ thoả mãn. Hàn Tín không thể quên được mối ân tình “cởi áo khoác lên người, cho ăn cho uống” của Lưu Bang. Rõ ràng Lưu Bang đã được lòng Hàn Tín, Lưu Bang đã xử sự hết mình, lấy con tim sánh với con tim: Mình đói bụng muốn ăn, thấy người khác cũng muốn ăn, liền nhường cơm của mình; mình lạnh, biết người khác cũng lạnh, liền nhường luôn áo; mình muốn được thiên hạ muốn làm hoàng đế, biết người khác cũng muốn vợ con được vinh hoa, làm rạng danh tổ tông, liền khẳng khái phong thương luôn. Cách nghĩ và cách làm như “có cơm để mọi người ăn, có áo cho mọi người mặc, có tiền cho mọi người tiêu, cùng phát tài phát lộc” ở Trung Quốc rất được lòng người.
Xưa nay Hạng Vũ thường không biết nghĩ cho người khác, nhiều lắm cũng chỉ là ban phát một chút ân huệ nhỏ, trong lúc tiến hành phân phối lại quyền lợi và lợi ích, chỉ hoàn toàn dựa vào yêu ghét của riêng mình, thích đem quyền uy ra doạ người. Hạng Vũ biếm trích Yên vương Hàn Quảng đến Liêu Đông, đuổi Triệu vương Triệu Yết đến nước Đại, đối với Hàn vương Hàn Thành, vì cớ để cho mưu sĩ Trương Lương giúp đỡ Lưu Bang, nên trước hết là không cho về nước (đến vùng đất phong), tiếp đến, giáng xuống tước hầu, cuối cùng là mưu sát (thật nhỏ nhen, hẹp hòi) cuối cùng buộc Trương Lương, túi khôn của Hàn Thành phải đến trại Hán, Hạng Vũ đối đầu đến cùng với Hàn Thành (sự thực thì Trương Lương đã cổ vũ Lưu Bang đông tiến phản Sở, quân đồng minh Kình Bố, Bành Việt phản Sở cũng phải nhờ Trương Lương liên lạc). Lưu Bang vào Quan Trung diệt Tần, công lao hàng đầu, nhưng đã không thể làm Quan Trung vương như lời hẹn, chí ít cũng phải đem quê cũ phong cho Lưu Bang, hoặc phong cho vùng đất gần đó một chút, để an ủi tình cảm nhớ quê của đội quân này. Bản thân Hạng Vũ thì áo gấm về quê, nên nhớ rằng người khác cũng có ý nghĩ như vậy (thực tế thì tướng sĩ của Lưu Bang “ngày đêm mong mỏi được quay về”). Nhưng Hạng Vũ đã không làm thế.
Có thể vì ghen tức vì Lưu Bang vào Quan Trung trước, ghen tức vì Lưu Bang đã cướp mất ánh hào quang của mình, đương nhiên, Lưu Bang sẽ bị đẩy tới Hán Trung, vùng đất được coi là hoang vu hẻo lánh thời đó, Lưu Bang cũng không muốn ở lại nơi này dù chỉ một ngày (nói như lời Lưu Bang “sao có thể ủ ê sống mãi ở đây”), cuối cùng đã dẫn quân đánh về hướng đông. Xét từ việc Lưu Bang vừa vào cung Hàm Dương đã ngẩn ngơ không muốn đi thì Lưu Bang cũng không phải là người có nhiều dã tâm. Lúc đó chỉ cần Hạng Vũ cho Lưu Bang một miếng thịt béo, biết đâu sự việc đã khác. Thực là khó khăn khi có ai đó muốn khích lệ Lưu Bang phản Sở, dĩ nhiên, số binh sĩ đã về quê có thể sẽ không quay lại chiến trường (Trương Lương đã nhận ra điểm này: “Thiên hạ đã định, mọi người đều đã yên chỗ, không thể dùng tiếp”). Nhưng Hạng Vũ đã không cho Lưu Bang được ăn no, điều đó buộc Lưu Bang không thể không nuốt Hạng Vũ.
Người không biết nghĩ cho người khác, thực ra cũng không biết nghĩ cho mình; còn người có thể lo liệu cho người khác thì phần lớn sẽ biết lo về mình. Lưu Bang tự biết mình, biết mình chẳng có gì cả, văn không thể an dân, võ không thể định nước, dùng kế không đủ mưu lược, đánh trận không có sức mạnh. Vì vậy Lưu Bang phóng tay giao mọi việc cho người khác làm. Bản thân chỉ làm có hai việc, một là dùng người, hai là quyết định. Như vậy không chỉ tránh được sở đoản của mình, còn có thể huỵ động được mặt tích cực của người khác, nhất cử lưỡng tiện. Thêm nữa, Lưu Bang còn biết rõ đúng sai, tốt xấu, chịu khó lắng nghe ý kiến người khác, dũng cảm sửa chữa sai sót của mình, lại có thể khoan dung với sai sót của người khác. Không câu nệ khi dùng người, có khả năng để người khác cam tâm tình nguyện giúp đỡ mình từ đó thu hút được bao nhiêu anh hùng hào kiệt đến bên cạnh, hình thành một cục diện bổ trợ từ bên ngoài rất chắc chắn. Ví như Phàn Khoái có dũng, Trương Lương có mưu, Hàn Tín biết cầm quân, Tiêu Hà biết trị nước, đúng là một tổ hợp rất tuyệt vời. Kết quả ông chủ Lưu Bang làm việc rất thoải mái và rất thành công. Hạng Vũ không hiểu được điều này, lại tự cho mình là anh hùng đệ nhất thiên hạ, việc gì cũng tự làm, ngược lại, đã mất sức mà chẳng hay ho gì, biến thành một kẻ đơn độc.
Hạng Vũ không biết người và cũng không hiểu mình. Không biết đâu là sở trường, đâu là sở đoản của mình, đương nhiên cũng không bao giờ nhận sai. Tận lúc binh bại ở Cai Hạ, tự sát ở Ô Giang, vẫn còn nói trời muốn diệt ta, ta chẳng sai lầm gì, đúng là “chết cũng không nhận sai”. Lưu Bang thì khác, Lưu Bang cũng phạm sai lầm, sai lầm trong phán đoán, sai lầm trong chiến lược, nhưng Lưu Bang dám nhận sai, dám thay đổi. Năm 200 trước Công nguyên, Lưu Bang đã phán đoán sai về hình thế và tình hình quân địch (kế dụ binh Hung Nô), không nghe lời khuyên gay gắt của Lâu Kính, tự mình dẫn quân vào trận địa mai phục của quân địch, kết quả bị quân Hung Nô vây khốn ở Bạch Đăng (một thành nhỏ gần Bình Thành, Bình Thành là thị trấn Đại Đồng, Sơn Tây ngày nay. Chiến dịch này được gọi là “vây ở Bạch Đăng” hoặc “vây ở Bình Thành”), may sao dùng mật kế của Trần Bình thoát khỏi nguy hiểm. Lưu Bang đưa quân về Quảng Vũ (thị trấn Dương Minh Bảo, phía tây nam huyện Đại, tỉnh Sơn Tây ngày nay), đến chỗ Lâu Kính, Lưu Bang đã cởi giáp, bái lạy Lâu Kính, thừa nhận sai lầm, ban cho Lâu Kính hai ngàn hộ, thăng quan Nội hầu.
Điều đó không có ở Hạng Vũ.
Xem ra, Lưu Bang đúng là anh hùng. Lưu Bang nhận sai, đó là biểu hiện tố chất anh hùng trong Lưu Bang. Trong lịch sử Trung Quốc, không có mấy vị đế vương, trương quan hoặc thủ lĩnh làm được điều đó. Chỉ cần làm được việc gì đó, họ liền cảm thấy tốt đẹp, rồi tự cho mình là “thiên tài”, “toàn tài”, hiểu hết, biết hết, cao kiến về mọi mặt, ra nhiều chỉ thị, câu nào cũng là chân lý, việc nào cũng chính xác; nếu có những ý kiến ngu xuẩn, thuộc hạ phê phán thì nổi giận đùng đùng hoặc ôm hận trong lòng. Nếu có ai phê phán quyết sách sai lầm, được thực tiễn chứng minh thì người đó sẽ càng đen đủi. Năm 200 có chiến dịch Quan Độ, Viên Thiệu không nghe lời khuyên của Điền Phong, nên mới bại trận ở miền bắc. Để cứu vãn sĩ diện của mình, Viên Thiệu cho giết Điền Phong (chương sau sẽ nói rõ). Tóm lại, họ chỉ biết lấy những sai lầm mới để che giấu những sai lầm cũ, quyết không nhận sai cũng không công khai nhận sai lầm. Lưu Bang bị vây ở Bạch Đăng vào năm 200 trước Công nguyên, Viên Thiện bại trận ở Quan Độ năm 200, hai sự kiện cách nhau tròn bốn trăm năm, kết cục hoàn toàn khác nhau, cũng không thể nói là do tinh thần cao hay thấp. Viên Thiệu là hào tộc, tư thế tam công, quý hết chỗ nói. Lưu Bang là lưu manh, không một xu dính túi, hèn hết chỗ nói, nhưng khí thế của Lưu Bang thì loại như Viên Thiệu không bao giờ sánh kịp.
Lưu Bang không chỉ rộng lượng mà còn tỉ mỉ.
Nhìn bề ngoài, Lưu Bang có phần đại khái, qua loa, kỳ thực lại tỉ mỉ, chi li. Buổi tối hôm trước Hồng Môn yến, Lưu Bang nghe nói, ngày hôm sau Hạng Vũ sẽ hội quân dưới thành, lại nghe nói Hạng Bá có thể đứng giữa hoà giải, lập tức quyết định quan hệ với Hạng Bá cho thêm gần gũi. Nhưng Lưu Bang không vội vàng đi gặp Hạng Bá ngay. Trước hết đi hỏi Trương Lương xem Trương Lương và Hạng Bá ai nhiều tuổi hơn. Nghe Trương Lương nói Hạng Bá nhiều tuổi hơn, lập tức Lưu Bang thay đổi cách xưng hô “em được anh tới thăm”. Như vậy, coi như đã nói mình là “anh em” với Trương Lương. Ngài là anh của Trương Lương, cũng tức là anh của Lưu Bang. Bình đẳng với Trương Lương, Trương Lương đẹp mặt, Hạng Bá càng đẹp mặt hơn. Hai bên đều vui vẻ, Lưu Bang thực thông minh.
Ngược lại, Hạng Vũ rất hồ đồ. Hạng Vũ chẳng khác gì người mẹ chồng, lúc đưa cơm lúc đưa thuốc, kỳ thực là thô kệch, là thằng ngốc, cẩu thả, hoặc nói như người Vũ Hán, “sĩ diện hão” (người thì đẹp đẽ, nhưng không có đầu óc). Lưu Bang đến quân doanh tạ tội với Hạng Vũ, nói thần và tướng quân đồng tâm hiệp lực, trừ diệt bạo tàn. Tướng quân đánh Hà Bắc, thần đánh Hà Nam, thần không ngờ mình lại vào Quan Trung sớm (thực ra đã có mưu đồ từ lâu, có giao dịch với Triệu Cao), nay mới được gặp lại tướng quân (khẩu khí của bè bạn thân mật). Thực bất hạnh đã có lời của kẻ tiểu nhân, đến đoạn tướng quân đã hiểu sai về thần (không hề hiểu sai). Nghe xong, Hạng Vũ nói luôn, chẳng phải người anh em thân thiết, bộ hạ của ngươi - Tào Vô Thương nói sao? Nếu không Hạng Tịch ta đâu có thế? Kết quả, trong lúc mụ mẫm Hạng Vũ đã bán đứng kẻ đưa tin đó.
Đúng là Hạng Vũ và Lưu Bang có nhiều điểm không giống nhau. Hạng Vũ bề ngoài tàn nhẫn, kỳ thực là mềm yếu, bề ngoài dũng mãnh, kỳ thực là yếu đuối. Lưu Bang bề ngoài ôn hoà, kỳ thực là ác độc, bề ngoài dễ dãi, kỳ thực là kiên cường. Hạng Vũ dễ bực dễ giận, hơi không vừa ý đã ầm lên như sấm dậy, lửa giận bốc lên hàng ba trượng, nhưng khi húp xong một vài bát canh, lại như người không có chuyện gì. Còn Lưu Bang, những ấm ức nhất thời có thể nhẫn nhịn, không xin lỗi, rồi đây sẽ tính sổ. Hãy xem Lưu Bang chỉnh trị Hàn Tín khác gì mèo vờn chuột.
Hiển nhiên, Hạng Vũ tính tình bình thường còn Lưu Bang là người theo chủ nghĩa thực dụng. Vì thực dụng, Lưu Bang không ngại dùng cả tiểu nhân, không ngại cho giết công thần. Vì thực dụng nên cũng chẳng sợ công khai nhận sai. Chỉ cần đạt được mục đích, Lưu Bang không bận tâm về hình tượng của mình. Không giống như Hạng Vũ, việc gì cũng quan trọng hoá, dù chết cũng giữ sĩ diện, dù chết cũng không nhận sai.
Có điều, người thực dụng như Lưu Bang cũng có chỗ giống Hạng Vũ, cả hai đều quý trọng anh hùng, tán thưởng người cao quý. Lưu Bang không coi ta và địch là chính nghĩa hay phi nghĩa một cách ngu xuẩn, nói phía địch đều là người xấu, bên ta đều là quân tử. Nếu nhìn thấy anh hùng, hảo hán chân chính, Lưu Bang luôn kính phục chân thành và tán thưởng, dù đối phương là địch hay là ta, là người tán thành hay phản đối mình. Sau khi giết Hàn Tín, Lưu Bang còn giết Bành Việt, tru di ba họ, tất cả bị hành quyết ở chợ ngoài thành Lạc Dương và bố cáo kẻ nào bạo gan đến lấy thi thể, đều giết không tha. Đúng lúc đó có đại phu Loan Bố người nước Lương đi sứ nước Tề về đến Lạc Dương, Loan Bố quỳ trước thi thể Bành Việt, báo cáo về quá trình đi sứ, còn phủ phục xuống đất, tế khóc Bành Việt. Lưu Bang thấy Loan Bố không coi cấm lệnh của mình ra gì, liền nổi giận hạ lệnh ném Loan Bố vào vạc dầu. Loan Bố thản nhiên bước tới chỗ đó, và quay đầu lại nói: “Xin nói một câu rồi sẽ chết”. Lưu Bang nói: “Cho phép nói!”. Loan Bố nói: “Năm đó, hoàng thượng bị vây ở Bành Thành, bại ở Huỳnh Dương, nguy ở Thành Cao, sở dĩ Hạng Vũ không thể tây tiến truy xét, vì Bành Việt đại vương đang trấn thủ Đại Lương, liên minh với Hán. Lúc đó chỉ cần Bành vương khẽ gật đầu, đã chẳng có ngày nay. Ngay như trận chiến Cai Hạ, nếu không có Bành vương, chắc Hạng vương cũng không thua. Nay thiên hạ đã định, lẽ nào Bành vương lại không được phong tước, an hưởng thái bình? Thực không ngờ, chỉ vì lâm bệnh phải nằm, một lần trưng binh không tới, hoàng thượng đã nghi ngờ Bành vương mưu phản. Chứng cứ mưu phản không có, hoàng thượng cho tìm mấy việc vụn vặt để xử Bành vương tội chết, còn giết cả ba họ, thần e công thần trong thiên hạ sẽ hết sức sợ hãi. Lúc này, Bành vương đã bị giết, thần sống phỏng có ích gì? Hãy để thần được nhảy vào vạc dầu!” Lưu Bang nghe xong, lấy làm kính nể, lập tức hạ lệnh phóng thích Loan Bố, còn phong làm đô uý.
Lưu Bang phóng thích Loan Bố vì tự thấy hổ thẹn (đúng là Bành Việt vô tội), cũng vì kính trọng nhân cách và nhân phẩm của Loan Bố. Những việc tương tự khá nhiều, ví như phóng thích Khoái Thông, xá miễn Quán Cao. Quán Cao là tể tướng nước Triệu, vì lập mưu ám sát Lưu Bang nên bị bắt. Ở trong ngục, tuy bị tra tấn khốc liệt, nhưng Quán Cao vẫn không chịu bán đứng Triệu vương Trương Ngao. Lưu Bang kính trọng hảo hán Quán Cao, sau khi xét rõ chân tướng, không chỉ phóng thích Trương Ngao còn xá miễn cho Quán Cao. Khoái Thông phản lại Hàn Tín, Quán Cao ám sát Lưu Bang, sự việc đã rõ, bản thân họ cũng đã thừa nhận, nhưng Lưu Bang không giết họ, Lưu Bang không phải là kẻ giết người điên cuồng. Lưu Bang giết công thần, hoàn toàn vì nhu cầu chính trị hoặc vì nhu cầu của nền chính trị chuyên chế. Vì vậy nói, chủ nghĩa chuyên chế đã giết Hàn Tín, Bành Việt, Tang Trà, Trần Hy, Lư Quản, Kình Bố và cũng suýt nữa đã giết Phàn Khoái. Lưu Bang đã giết hàng loạt, bởi “nền chính trị chuyên chế luôn đòi hỏi như vậy”. Tuy là vậy, nhưng đối với những người không quân không quyền, bản thân trơ trọi thì Lưu Bang không giết. Bởi vì giết họ là vô nghĩa, không giết là thể hiện sự khoan dung, cải thiện được hình tượng, có lợi về mặt chính trị. Hơn nữa, Lưu Bang đã có lòng kính trọng những trượng phu ngang bướng này!
Điều này có phần khác với Hạng Vũ.
Hạng Vũ cung kính những trượng phu ngang bướng. Ở Hồng Môn yến, dù Phạm Tăng đã mấy lần ra hiệu, Hạng Vũ vẫn yên lặng, nhưng khi “Hạng Trang múa kiếm, nhằm vào Bái công”, Hạng Vũ cũng không ngăn. Rõ ràng lúc đó vẫn còn hai khả năng giết hay không giết Lưu Bang, giống như để theo mệnh trời. Nhưng sau khi Phàn Khoái bước vào, tình hình liền thay đổi. Phàn Khoái xông qua cửa, bước thẳng vào trướng, hai mắt giận dữ nhìn thẳng vào Hạng Vũ. Phàn Khoái tóc dựng ngược, mắt hằn học, Hạng Vũ thất kinh trước hình tượng đó. Nghe Trương Lương nói, đó là tham thừa của Bái công (gần như thị vệ) liền tán thưởng là u tráng sĩ”, khi Phàn Khoái uống hết đấu rượu, ăn sống chân sau của lợn, Hạng Vũ liền thấy thích thú, quỷ mến Phàn Khoái. Vì vậy khi Phàn Khoái trả lời Hạng Vũ “thần chết còn chẳng trách, sao có thể từ chối một nậm rượu”, còn dõng dạc chỉ trích Hạng Vũ “muốn giết người có công”, rõ ràng là “kế thừa Tần đã mất”, Hạng Vũ không chỉ nổi nóng, còn ra quyết định không giết Lưu Bang. Rõ ràng lúc này Hạng Vũ đã quên việc tranh giành thiên hạ, quên sĩ diện, lúc này trong lòng chỉ còn lại sự sùng kính và tán thưởng khí tiết người anh hùng, hảo hán bướng bỉnh đó.
Đó chính là thái độ thẩm mỹ. Và đó cũng là phong thái thời đại của người anh hùng. Tôi cho rằng, trước Tần đến đầu Hán là thời đại vẻ vang nhất của dân tộc Trung Hoa, là thời đại anh hùng không thể quên trong lịch sử cổ đại dân tộc Trung Hoa, giống như Marx từng nói, cổ đại Hy Lạp là giai đoạn lịch sử đỉnh cao, không bao giờ lặp lại. Tán thưởng khí chất, khí khái người anh hùng cũng là một loại tinh thần của thời đại. Lúc Hàn Tín đến doanh trại Hán, mới chỉ là tên gác cửa hèn mọn. Vì xúc phạm quân pháp, theo luật là phải chém. Cùng phạm án có mười ba người nữa, họ đều đã bị giết. Đến lượt Hàn Tín thì vừa thấy thân tín của Lưu Bang là Đằng công Hạ Hầu Anh ngang qua, liền lớn tiếng gọi to: Chẳng phải Hán vương muốn thành thiên hạ đại nghiệp ư? Vì sao lại giết tráng sĩ? Kết quả Đằng công nghe xong, nghiêm mặt, tha không giết, trò chuyện, thật thú vị”. “Nghiêm mặt” ở đây không phải là nghiêm mặt doạ người. Đó là trực giác thẩm mỹ đặc biệt của người anh hùng trong thời đại này, là vừa nhìn đã nhận ra những cái đáng quý. Nếu không thế thì sao lại có nhiều người giỏi chỉ qua một đêm, đã từ áo vải trở thành khanh tướng, được đề bạt đặc biệt và đề bạt chính xác đến như vậy?
Hạng Vũ, Lưu Bang đương nhiên đều là anh hùng. Khác nhau là, Lưu Bang là anh hùng lưu manh, Hạng Vũ là anh hùng bản sắc. Đúng như lời Tiễn Bá Tán bàn về Hạng Vũ “Hạng Vũ anh dũng, kiên cường, khẳng khái, thẳng thắn và giàu tình cảm, đó là anh hùng bản sắc(2). Đáng tiếc là, dũng tướng nhưng vô mưu, kiên cường mà thiếu nhẫn, khẳng khái nhưng không hào phóng, thẳng thắn lại có chút hẹp hòi. Giàu tình cảm nhưng làm việc theo cảm tính, nhìn không xa, nên mới thất bại bởi Lưu Bang - người thích dùng mưu trí, kiên mà nhẫn không thay đổi, hào phóng rộng rãi, bụng dạ sâu xa, lý trí thực dụng, mưu sâu kế hiểm, còn biết nhẫn nhịn kìm nén. Có thể nói, sự thành bại công tội của Hạng Vũ đều vì Hạng Vũ là anh hùng bản sắc. Là anh hùng có khí chất nên có giá trị thẩm mỹ, vì có bản sắc, nên không có khả năng thành công. Hạng Vũ đáng yêu và cũng đáng buồn.
Hàn Tín thì vừa đáng kính vừa đáng thương. Hàn Tín đáng kính ở chỗ, tuy xuất thân bần hàn, nhưng tâm hồn lại cao quý, thân nơi hạ tiện chí ở thượng lưu, đây là điểm không giống với Lưu Bang. Tuy Lưu Bang có nói câu: “Đại trượng phu phải được như vậy” lúc nhìn thấy Tần Thuỷ Hoàng, nhưng nói chỉ để mà nói, không hề có động tĩnh gì, cũng không hề có chuẩn bị gì. Sở trường của Lưu Bang là biết học hỏi, vì vậy mới có thể trưởng thành trong chiến đấu, nhờ vào thiên phận cao xa và khả năng tuỳ cơ ứng biến của mình, cuối cùng mới thành nghiệp đế. Ngược lại, Hàn Tín đã có chuẩn bị, lúc ăn đậu ở nhờ người khác, lúc đói bụng ở bên sông, lúc là lang trung cầm kích đứng gác dưới quyền Hạng Vũ hoặc lúc là liên ngao lo việc tiếp khách ở chỗ Lưu Bang, lúc nào Hàn Tín cũng có chuẩn bị. Hàn Tín luôn tin tưởng “Trời sinh ta tất có chỗ dùng”, không tin rằng suốt đời lại không có một ngày được mở mày mở mặt, chính nhờ vào lòng tin đó, Hàn Tín nhẫn nhục chịu đựng, chính nhờ vào sự phấn đấu, Hàn Tín đã thoát ra được.
Hàn Tín đáng buồn ở chỗ không triệt để. Bên trong tính cách của Hàn Tín có mâu thuẫn nên mới như vậy. Một kẻ ti tiện nếu có mưu đồ lớn (Lưu Bang lòng dạ không như vậy, chỉ biết theo thời thuận thế) sẽ không tránh khỏi ý muốn đầu cơ. Hàn Tín bị hớ, bị hớ vì tâm trí đầu cơ đó. Lúc có thể phản Hán, Hàn Tín cảm thấy không phản thì lờ lãi sẽ càng lớn; lúc không thể phản Hán, Hàn Tín lại có cảm giác không phản sẽ thiệt to. Hàn Tín dâng thủ cấp Chung Ly Muội, là muốn mua cổ phần chính trị, lại bị một người giỏi nắm bắt thời cơ như Lưu Bang xem thường. Bá Dương nói: “Bi kịch phát sinh ngay lúc Hàn Tín không hề muốn phản, nếu có, chắc sẽ hay hơn”. Nói như vậy chưa đúng lắm. Bá Dương nói, nhà Hán chưa nắm được bất cứ một chứng cớ làm phản nào của Hàn Tín, chỉ bằng vào lời người đến báo mà định tội, đúng là “vu cho mưu phản”. Nhưng theo tôi, việc mưu phản của Hàn Tín và Trần Hy chắc không phải là bịa đặt. Lời Hàn Tín nói trước khi chết rằng hối hận vì đã không nghe lời Khoái Thông, chắc cũng không phải là bịa đặt. Đương nhiên lời nói đó có thể giải thích Hàn Tín đã để mất thời cơ, cũng có thể giải thích Hàn Tín nếu có bụng làm phản thì chắc mọi chuyện đã xong. Nhưng bất kể là nói thế nào, Hàn Tín ít nhiều cũng có ý mưu phản. Sự việc xấu đi vì ở Hàn Tín có cả lòng trung lẫn ý gian, và cả hai đều không triệt để, không hết lòng trung và cũng không dám phản thật. Nếu như trung đến cùng, thì dù Lưu Bang, Lã hậu vu cáo hãm hại, chắc sẽ có những người chính phái như Loan Bố đứng ra kêu oan, can thiệp vào chuyện bất bình, hoặc về sau sẽ bình phản xoá tội. Nhưng tiếc là đều không có. Nếu như phản đến cùng, đương nhiên là rất tốt. Thành công thì khỏi phải nói, còn thất bại, thì cũng còn gì để phải hối hận. Khi đó, Hàn Tín sẽ có thể đường đường chính chính nói với Lưu Bang: Ta đây muốn giết ngươi, đồ mặt người dạ thú! Chẳng phải tốt hơn sao? Chưa hẳn Lưu Bang theo lệ của Quán Cao, không giết Hàn Tín. Quán Cao tội nặng, giết vua là phải lăng trì xử giảo nhưng Quán Cao trong ngoài như một, trước sau như một, một đời khẳng định Triệu vương không mưu mô, một lời khẳng định mình là muốn phản. Kết quả, trong con mắt mọi người Quán Cao luôn là anh hùng. Đâu có như Hàn Tín phải nuối tiếc: Nói là oan, nhưng cũng không thật oan; nói không oan, cũng chưa hẳn. Đã không là trung thần cũng không là phản tặc, vừa không thể lấy lòng, vừa không được đồng tình, nói xem, oan hay không?

Tóm lại, Hạng Vũ là anh hùng bản sắc, cũng là anh hùng triệt để, Hàn Tín khó khăn lắm mới được là anh hùng, là anh hùng không triệt để. Vì vậy, Hạng Vũ chết oanh liệt, Hàn Tín ấm ức mà chết.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptySat Jul 19, 2014 6:34 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
HẠNG VŨ
- 5 -
Cái chết của Hạng Vũ
Hạng Vũ vốn có thể không chết.
Lúc Hạng Vũ đến bên sông Ô Giang, ở đó đã có thuyền đến đón. Viên đình trương Ô Giang lái thuyền chắc là một người sùng bái Hạng Vũ, nên đã chờ từ lâu, quyết tâm cứu Hạng Vũ qua sông. Ông nói với Hạng Vũ, lúc này cả vùng Ô Giang chỉ còn một chiếc thuyền nhỏ của thần, mời đại vương nhanh chóng lên thuyền, quân Hán không thể qua sông. Giang Đông tuy nhỏ, đất đai ngàn dặm, dân số chục vạn, nhưng hoàn toàn có thể dựng nên bá nghiệp. Nhưng Hạng Vũ đã chối ý tốt của viên đình trưỏng. Hạng Vũ chỉ cầu xin đinh trưởng chở chiến mã yêu quý của mình qua sông, còn mình cùng lũ thân binh theo hầu đều xuống ngựa đi bộ, vượt qua vòng vây, giáp mặt với số quân Hán vừa đuổi tới. Đây là trận chiến lấy ít đánh nhiều, chẳng lợi lộc gì, nhưng nếu vì thế mà không đánh giơ tay xin hàng, chịu trói, thì đâu phải là Hạng Vũ. Hạng Vũ hiên ngang để chết, quyết không quỳ lạy xin sống. Đương nhiên không đời nào Hạng Vũ buông vũ khí, Hạng Vũ vẫn muốn cầm vũ khí, kể từ ngày Hạng Vũ bắt đầu cầm vũ khí, vũ khí chưa hề rời tay. Ngược lại, trong giờ phút cuối cùng của cuộc sống, còn muốn giơ cao vũ khí, giống nhà nghệ thuật ưu tú, muốn màn diễn sau cùng phải sôi nổi nhất. Hạng Vũ và những người theo hầu đều hiểu như vậy. Thế rồi, trận chiến địch mạnh ta yếu được diễn ra tựa mây vần gió chuyển, vang động cả núi sông, riêng cá nhân Hạng Vũ đã giết được mấy trăm quân Hán, bản thân bị hơn chục vết thương. Khi đó, quân Hán đuổi tới ngày một đông, trong đó có cả Lã Mã Đồng, người đồng đội cũ của Hạng Vũ. Hạng Vũ cười to, rồi lớn tiếng gọi sang: Đây chẳng phải là bạn cũ! Lã Mã Đồng kẻ phản Sở hàng Hán thấy khó nghĩ, không dám nhìn Hạng Vũ, quay đầu lại nói với Vương E một viên tướng Hán khác: Đấy chính là Hạng Vũ. Vậy Vương E là “người bạn mới” của Vũ. Rồi Hạng Vũ nói với Vương E: Nghe nói quý quốc chi một khoản tiền lớn, thưởng ngàn vàng, phong vạn hộ để mua đầu của ta, vậy ta cho ngươi đây! Nói xong liền lấy kiếm tự cắt cổ.
Chẳng cần phải nói nhiều, ai cũng thấy, Hạng Vũ chết rất mãnh liệt, chết rất anh hùng, chết trong khí thế bừng bừng, trời đất phải kinh, quỷ thần phải khóc, ngay cả nước sông Ô Giang cũng phải nghẹn ngào, từng đợt sóng cuồn cuộn dâng trào. Rõ ràng, cái chết của Hạng Vũ là cao quý. Bất kể Hạng Vũ chết vì cái gì, cái chết của Hạng Vũ luôn có giá trị thẩm mỹ, ma lực, nhân cách, không gì sánh kịp.
Nhưng Hạng Vũ chết cũng rất thảm.
Đúng vào lúc Vương E cướp được đầu của Hạng Vũ thì số tướng sĩ quân Hán còn lại cũng ùa lên, chúng giẫm đạp lên nhau, thậm chí còn giết hại lẫn nhau, hơn chục người chết, để giành nhau thi thể của Hạng Vũ. Cuối cùng thì Vương E được thủ cấp, Dương Hỷ, Lã Mã Đồng, Lã Thắng, Dương Vũ mỗi người được một miếng thịt. Chúng chia nhau mảnh đất được Lưu Bang phong thưởng, mỗi đứa còn được thêm một chức quan gì gì đó. Còn vị anh hùng của chúng ta, vị anh hùng mà trước kia mỗi lần nghe tin chúng đã kinh hồn bạt vía, lúc này đã không toàn thây, sau khi bị chúng xâu xé, cướp đoạt.
Thực không sai, “hổ xuống đồng bằng bị chó bắt nạt”.
Bi kịch của Hạng Vũ là bi kịch của thời đại.
Thời đại trước Hạng Vũ là thời đại anh hùng, cũng là thời đại của quý tộc. Tinh thần thời đại đó đầy cảm giác cao quý và khí chất anh hùng. Tượng trưng cho loại tinh thần đó là hổ, báo. Đối lập với nó là dê, chó. Tử Cống, một học trò của Khổng Tử thường lấy hổ, báo, chó, dê để ví với hai loại nhân cách khác nhau và than thở về khả năng hổ, báo có thể lạc thành dê, chó: “Da của hổ, báo cũng giống da của dê, chó lúc đã cạo hết lông”. Nhưng theo thầy Khổng Tử thì, tinh thần hổ, báo là cao quý, có giá trị thẩm mỹ, sẽ không bị thay bởi cái thô bỉ của loài chó, sự tầm thường của loài dê.
Nhưng, kể từ lúc Tần Thuỷ Hoàng dựng nền chính trị chuyên chế trung ương tập quyền thì thời đại anh hùng cũng bắt đầu đi vào ngõ cụt.
Chuyện quân thần ngồi bên nhau trò chuyện đã không còn, và thay bằng hành lễ sửa nghĩa, khấu đầu như giã gạo, các hiệp khách mưu sĩ tung hoành trong thiên hạ thi triển tài năng cũng không còn, thay vào đó là phe phái bè đảng, câu kết quyền quý lo bò lên cao; chư tử bách gia tự do tranh luận đã hết, lấy độc tôn nho thuật, tư tưởng cá nhân để thay thế. Uy quyền và lợi lộc trở thành chủ thể và động lực, nhân cách và linh hồn được che giấu và chà đạp, khác gì lũ Vương E, Lã Mã Đồng chà đạp Hạng Vũ.
Thế là, chúng ta có thể nhìn thấy một bức tranh: Sau khi một chú hổ hoặc báo đại biểu cho tinh thần anh hùng, cảm giác cao quý, cô độc trên thảo nguyên chết, một bầy dê dung tục và sói thô bỉ đại biểu cho quyền lợi và lợi lộc, nhất loại ùa tới, rồi xâu xé, chà đạp chú hổ hoặc báo kia, sau đó mỗi cá thể miệng ngậm một miếng da báo hoặc một khúc xương hổ, chuẩn bị quay về báo công lĩnh thưởng. Còn trước đó không lâu, bọn chúng, ngay đến nhìn cũng không dám nhìn chú hổ hoặc chú báo nọ. Lưu Bang là thủ lĩnh bọn sói, dê đó; Lưu Bang là vua, là chủ của chúng.
Nói về ma lực của con người này, Lưu Bang không đáng yêu, không đáng kính, nhưng cũng không phải loại đê tiện. Lưu Bang xuất thân lưu manh, không tránh khỏi có phần vô lại, một số việc làm không thấu đáo, nhưng cũng đáng được coi là anh hùng. Trong xương tuỷ Lưu Bang có khí chất của anh hùng, cũng là một trượng phu hăng hái. Năm 195 trước Công nguyên, Lưu Bang trở lại quê hương huyện Bái, thết tiệc các bậc phụ lão, người quen cũng như nhiều anh em khác. Lúc rượu vừa ngấm, Lưu Bang tự gõ phách và cất tiếng ngâm: “Bão giông nổi hề mây vần vũ, uy khắp nước hề về cố hương, như mãnh sĩ hề gửi bốn phương”. Lời ca vang lên, Lưu Bang rời khỏi chỗ và nhảy múa, khẳng khái lẫn thương đau, lệ rơi mấy hàng. Lưu Bang cầm tay bà con cùng các bậc phụ lão. Kẻ đi xa nhớ quê hương, Lưu mỗ tuy không thể không định đô ở Quan Trung, nhưng trăm năm sau, linh hồn Lưu mỗ hướng về đất Bái. Rõ ràng, Lưu Bang tuy vô tình nhưng không hề lạnh lùng, tuy thực tế nhưng cũng rất lãng mạn. Nhưng Lưu Bang lại đại biểu cho chế độ tàn khốc vô tình, huỷ hoại nhân tính, là một chế độ lấy quyền lợi và lợi lộc thay cho khí chất anh hùng và tinh thần cao quý. Trên thực tế, chính Lưu Bang đã dựa vào quyền lợi và lợi lộc để hoàn thành cái gọi là “đại nghiệp”. Ngay cả Trần Bình cũng nói toạc ra, bên cạnh Lưu Bang rặt một lũ vô sỉ ngu dốt hám lợi.
Lũ này đang dựa vào Lưu Bang “nhường tước, nhường đất phong”, cũng tức là dựa vào quyền lợi, lợi lộc tập kết cùng nhau. Bởi vì Lưu Bang thừa nhận sự nghiệp của Tần Thuỷ Hoàng xây dựng chế độ trung ương tập quyền, thống nhất thiên hạ, vạn thần dân và trẫm phải là một, Lưu Bang không thể không đả kích, chà đạp khí chất anh hùng và tinh thần cao quý, bao gồm cả việc gắng loại bỏ những thứ còn lưu lại trong đáy lòng mình, đấy đều là những nguyên nhân khiến Lưu Bang luôn cảm thấy cô độc và đau khổ.
Hiển nhiên Lưu Bang là người đại biểu cho “phương hướng lịch sử”, Hạng Vũ là kẻ “không hợp thời”. Trên thực tế kể từ đó, kiểu anh hùng bướng bỉnh, ngây thơ, có phần ngốc như Hạng Vũ ngày càng ít đi, trái lại, các nhà âm mưu hiểm ác độc địa, những con mọt sách hủ bại ngu trung ngày một nhiều. Từ ý nghĩ đó, Hạng Vũ nói, mình bại vì “Trời muốn diệt ta” là cũng đáng.
Cái chết của Hạng Vũ như một điểm báo kết thúc một thời đại. Sau lúc thời đại hổ, báo kết thúc, thay thế là thời đại sói, dê. Và sói cũng có thể thoái hoá thành chó, chó săn.
Chừng như Hạng Vũ sinh vào năm 233 trước Công nguyên, chết năm 202 trước Công nguyên. Năm hai mươi tư tuổi khởi binh, là thiếu niên anh hùng; tự vẫn lúc ba mươi tuổi, là một chàng trai cáo biệt thời niên thiếu, bước vào những năm tháng trưởng thành hấp dẫn nhất.

Cuộc đời Hạng Vũ tuy ngắn ngủi nhưng để lại biết bao nhiêu câu chuyện, truyền thuyết, thành ngữ, còn rất nhiều chuyện đáng bàn. Những thành ngữ mà ai cũng thuộc có: Quyết một phen sống mái; sống chết mặc bay; áo gấm đi đêm; khỉ đội mũ người; bốn mặt Sở ca, Bá vương biệt Cơ, cùng với “Hạng Trang múa kiếm nhằm vào Bái Công” và “Không còn mặt mũi nhìn phụ lão Giang Đông”… Và bài thơ năm câu của Lý Thanh Chiếu, người người thích ngâm như sau: “Sinh ra làm nhân kiệt, chết biến thành quỷ hùng, tưởng nhớ mãi Hạng Vũ, không dám qua Giang Đông”.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyWed Jul 23, 2014 11:20 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
TÀO THÁO
- 1 -
Làm năng thần hay gian hùng
Tào Tháo là gian hùng.
Tào Tháo là gian hùng, phần lớn do bị ép buộc.
Lúc này mới thấy, thời đại Hạng Vũ còn tương đối tự do. Bấy giờ, thể chế chuyên chế trung ương tập quyền đang trong giai đoạn ban đầu và thời gian thử nghiệm cũng không dài, sau khi Tần diệt vong, mọi người cũng không chơi ngón trò này nữa. Quan niệm “dưới gầm trời chỉ có thể có một hoàng đế, bất kể hoàng đế là thần là người, là chó là lợn, đều phải tuyệt đối trung thành, bằng không tức là gian là phỉ”, cũng chưa được hình thành rõ rệt. Cục diện “thiên hạ phân phong, chư hầu cát cứ, ngũ bá nổi dậy, thất hùng cùng hưng, Sở mạnh nam phục, Tần bá tây thuỳ, thay phiên tử hội ước chư hầu, quyết phen sống mái” vẫn còn mới mẻ trong ký ức mọi người. Các chủ hầu tự do tuyên chiến, giảng hoà, kết minh, thu thuế, hoàn toàn không coi thiên tử ra gì. Văn nhân và võ sĩ, du hiệp cùng lũ thích khách được tự do chu du các nước, lưu động giữa các chư hầu, sớm Tần tối Sở, chọn chủ mà thờ, cũng không hề coi tước vị quan lộc trong tay là gì cả. Thậm chí Điền Tử Phương còn nói với Nguỵ thái tử là Kích rằng: Kẻ sĩ bàn luận mà không được dùng, chủ trương mà không hợp, thì lập tức chạy sang nước khác. Vứt bỏ quốc dân cũng như vứt bỏ chiếc giày cỏ. Tóm lại, khi đó một người chỉ cần có thực lực, có khả năng, có bản lĩnh, thì nhiều ít tuỳ ý có thể làm những việc minh muốn làm. Dù vận may chưa đến, có thất bại, cũng không có ai đàm tiếu. Vì vậy, tuy nói “thắng làm vua, thua làm giặc”, nhưng Trần Thắng từng tuyên chiến với hoàng đế, giữ nghĩa mà bại trận, cũng không có ai nói Trần Thắng là giặc, là phỉ? Không giống như bọn Tống Giang sau này, dù đã chiêu an, nhưng vẫn không vứt bỏ được cái mác thổ phỉ hay giặc cỏ.
Đây là thời đại sôi động, chiến tranh không ngừng, chiến sự liên miên, thôn tính lẫn nhau, cá lớn nuốt cá bé, và cũng là thời đại anh hùng, thời đại giữa hổ và báo. Đối với người yếu là không công bằng cho lắm, nhưng đối với người mạnh thì có cả một vùng trời tự do rong ruổi. Nên dù nói gì đi nữa, Hạng Vũ vẫn là người có nhiều tự do. Nay đã thất bại, nhưng vẫn không hề mất sĩ diện của người thất bại, vẫn còn nhiều người cúng tế nhớ thương Hạng Vũ. So sánh một chút thì thấy, Tào Tháo là người lỗi thời đen đủi hơn nhiều. Tào Tháo đã thành công (rất thành công), nhưng vẫn bị vẽ thành bộ mặt trắng bệch(1).
Số phận đã định, Tào Tháo chí có thể làm người xấu.
Tào Tháo, tự Mạnh Đức, tên cúng cơm là A Man, người huyện Tiều nước Bái, nay là thị trấn Bạc Châu, An Huy. Tam quốc chí của Trần Thọ nói, Tào Tháo là hậu thế của Tào Tham, tướng quốc thời Tây Hán, nói thế là sai. Vì Tào Tháo vốn không phải họ Tào. Tào Tung, cha của Tào Tháo chỉ là con nuôi của Tào Đằng. Tào Tung và Tào Đằng không có quan hệ huyết thống thì dù có chứng minh rõ, Tào Đằng là đời sau của Tào Tham, cũng có liên can gì đến Tào Tháo? Sự thực thì, cha mẹ đẻ của Tào Tung cuối cùng là ai, đến nay vẫn còn là câu đố, ngay cả Trần Thọ cũng chỉ có thể nói “không thể biết ai đã sinh ra họ”. Tào Tháo nói biết cha mẹ đẻ của mình là ai, vẫn chỉ là “lai lịch bất minh”.
Tào Tháo sống trong thời đại không tốt.
Tào Tháo sinh ra và lớn lên ở hai triều Hán Hoàn đế, Linh đế, ra đời vào năm 155 Công nguyên, năm Vĩnh Thọ thứ nhất thời Hoàn đế, năm 174 Công nguyên, năm Hy Bình thứ ba thời Linh đế Tào Tháo ra làm quan; hai triều Hoàn, Linh được coi là thời đại hỗn loạn nhất, đen tối nhất trong lịch sử bốn trăm năm vương triều Hán. “Thời kỳ Hoàn - Linh” là cụm từ chỉ thời kỳ vua tối quan gian này, muốn làm “người tốt” trong thời đại này là quá khó. Không bị hãm hại cũng bị chèn ép, Tào Tháo không chỉ không muốn bị hãm hại, cũng không muốn bị chèn ép, đương nhiên phải làm “người xấu”. Tóm lại, Tào Tháo sinh không gặp thời, lai lịch bất minh, thực quá đen đủi.
Trong thực tế, thời đại của Tào Tháo khác hẳn với thời đại của Hạng Vũ. Giả sử Tào Tháo sinh trưởng gặp thời, cũng chưa hẳn đã làm được gì. Kể từ khi vị hoàng đế lưu manh Lưu Bang thống nhất thiên hạ về mặt tổ chức, cháu của Lưu Bang là Vũ đế Lưu Triệt thống nhất thiên hạ về mặt tư tưởng, thì những kẻ hổ báo có khí chất anh hùng và tinh thần cao quý, cho dù là văn nhân hay võ sĩ, cho dù là có ý tưởng hay hành động đều bị xử lý gần hết. Biện pháp xử lý vẫn là chiếc gậy có thêm củ cà rốt, có điều củ cà rốt có hạt và chiếc gậy sẽ biến thành răng sói dính đầy máu. Thái sử công Tư Mã Thiên chỉ nói đỡ cho Lý Lăng nói mấy câu, mạo phạm hổ uy của Vũ đế liền bị nhục hình đến mức, nam không ra nam, nữ không ra nữ; còn như Đại nông lệnh Nhan Dị căn bản không bàn luận, chỉ là nghe người khác bàn về triều chính, môi dưới cứ mấp máy, trễ xuống một chút, liền bị coi là “phục phỉ” (có bụng phỉ báng), liền bị tử hình; chẳng trách trong thành Tràng An khi đó có năm vạn người, tù nhân có tới mười sáu, mười bảy vạn, chẳng trách khi Lang trung lệnh Thạch Kiến dâng thư tâu việc, chữ “mã” viết thiếu nét, đã phải sợ đến kinh người. Những chuyện này đều xảy ra trong thời kỳ vị vua hùng tài đại lược Hán Vũ đế cầm quyền. Vũ đế luôn được coi là một trong các vị đế vương vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc, chính là “Tần Hoàng Hán Vũ, Đường Tông Tống Tổ”. Vì vậy, Hán Vũ đế luôn được coi là anh hùng. Nhưng tôi lại thấy, nền thống trị dưới bàn tay sắt của Vũ đế, nghiệp tích anh hùng thì có, nhưng không có tinh thần anh hùng.
Tào Tháo sống trong thời kỳ Hoàn - Linh, tình hình lúc này đã quá tồi tệ. Vương triều Đại Hán cùng với chế độ của mình, trong ngoài đâu đâu cũng đầy xác chết. Trên thực tế, từ lúc Vương Mãng cướp quyền đến sau khi Quang Vũ trung hưng, vương triều Hán đã không thể phục hồi. Ngoại thích nắm quyền, hoạn quan chuyên chính, quân phiệt xưng hùng, gian thần liều mạng nắm quyền, tham quan ra tay vơ vét, trăm họ đành phải ăn nhờ đất Phật. Đạo đức suy đồi, tất cả là một mớ hỗn độn. Lúc đó có những câu dân ca: “Đỗ tú tài, không biết chữ, đỗ hiếu liêm, cha ở riêng”; “thẳng như dây cung, chết bên đường, cong như cái móng, được phong hầu”, rõ ràng thiếu liêm ít sỉ, miệng thật lòng giả đã thành mốt. Chẳng có gì là lạ, vương triều ấy, chế độ ấy không dùng được người quân tử, tất sẽ nuôi được kẻ tiểu nhân, đã không nghe được lời nói thật, mọi người đành phải nói lời giả. Khi nhiều người phải lén lút, run sợ, như rùa rụt cổ, chuột già vào hang, khi ham muốn quyền lực phình lên cực độ, ham muốn vật dục ngang ngược bành trướng thì ti tiện được khích lệ, cao quý bị đả kích, làm gì có khí chất anh hùng, tinh thần cao quý, làm gì còn hổ và báo. Có chăng chỉ là chó và dê. Chó thô bỉ đó là từ con sói ác độc biến thành, còn dê tầm thường chính là con sói khoác da dê, hơn nữa là con sói lông vàng.
Nếu lúc này, đột nhiên xuất hiện một chú hổ hoặc báo, thì sẽ ra sao đây? Mọi người sẽ coi chúng như quái vật, giống con vịt trong truyện cổ tích, nói con thiên nga nhỏ bé kia là con vịt nhỏ xấu xí. Nhưng đó chỉ là lời mấy chú vịt cười nhạo chú vịt con xấu xí, mấy con chó thô tục và mấy con dê tầm thường kia sẽ nhất tề xông lên, tỏ vẻ mặt hoa da phấn cho hổ và báo kia xem.
Vận mệnh Tào Tháo là như vậy.
Vận mệnh của Tào Tháo như đã được quyết định từ trước.
Con người Tào Tháo lúc nhỏ chừng như là “thiếu niên có vấn đề”, nhiều chỗ giống với Lưu Bang, Hạng Vũ thuở nhỏ, có điều Tào Tháo thích đọc sách hơn hai người kia. Sử sách nói, lúc nhỏ Tào Tháo “thích ưng bay chó chạy, phóng đãng vô độ”. Người chú không vừa mắt khi thấy cảnh đó, thường nhắc nhở Tào Tung phải thường xuyên trông nom thằng bé này, Tào Tháo biết chuyện, liền nghĩ quỷ kế để đối phó với ông chú lắm chuyện. Một hôm, Tháo nhìn thấy ông chú từ xa đi tới, liền vờ méo miệng xệch môi. Chú đến hỏi vì sao, đáp đột nhiên trúng gió. Lập tức người chú đến báo với Tào Tung. Lúc Tào Tung gọi Tào Tháo đến xem, đã chẳng thấy có chuyện gì. Nhân đó Tào Tháo nói thêm, làm gì có chuyện con trúng gió! Có thể chú không thích con nên mới nói bừa như vậy! Đã có chuyện “sói đến rồi” làm vật đệm, từ đó về sau người chú có nói gì đi chăng nữa, Tào Tung đều không tin.
Thực tình thì Tào Tung không quan tâm nhiều đến việc dạy dỗ đứa con này. Tào Tháo làm thơ nói: “Ký dĩ tam tỉ giáo, bất văn quá đình ngữ” (Dịch nghĩa: Chưa từng được nghe dạy dỗ về “tam tỉ”, cũng chưa từng được nghe về “quá đình”), “tam tỉ” là nói mẹ thầy Mạnh Tử, đã rời nhà đến ba lần, để con có hoàn cảnh tốt, còn quá đình là nói, con Khổng Tử hai lần đi qua sân, đều bị cha gọi lại để giáo dục, lần một bảo con học Thi, lần hai bảo con học Lễ. Xem ra, từ nhỏ Tào Tháo không được cha mẹ dạy bảo, là con nhà không mấy gia giáo. Vì thế, Tào Tháo “chơi bời phóng đãng, không màng sự nghiệp”, không khác mấy với Lưu Bang lúc trẻ “rượu chè trai gái”, “không nghĩ chuyện làm ăn, gia đình”.
Bạn bè của Tào Tháo như Viên Thiệu, Trương Mạc cũng cùng một loại. Họ thường tụ tập ầm ĩ, cũng lắm chuyện ra trò. Một lần có một người kết hôn, Tháo và Thiệu đến xem, rồi bỗng nhiên nghĩ tới chuyện cướp cô dâu. Cả hai đã trốn vào trong vườn, chờ lúc trời tối mới gào to: “Có trộm”, khi người đến dự hôn lễ chạy hết ra ngoài, nhân lúc rối loạn, Tào Tháo liền chạy vào động phòng cướp dâu. Vì quá hốt hoảng, đi đường không khéo, Viên Thiệu rơi vào bụi gai bên đường, không sao thoát ra được.
Trong lúc nguy cấp, Tào Tháo sinh kế, liền gào lên: “Trộm ở đây!”. Vì sợ quá Viên Thiệu bật mạnh, cả người thoát khỏi bụi gai, những quỷ kế như vậy, Tào Tháo có rất nhiều, trách gì “Tam quốc chí” từng nói Tháo là “ít nhạy bén, nhưng tài ứng biến”.
Một đứa trẻ thích chơi những trò ác như vậy, hẳn nhiều người sẽ không thích, họ xem thường Tào Tháo. Nhưng Thái uý Kiều Huyền lại nói Tào Tháo là “tài giỏi nhất đời”, bình định thiên hạ sau này, chính là Tào Tháo. Vì vậy, Tào Tháo tuy ngang bướng nghịch ngợm, không có phép tắc, nhưng không phải con em nhà lưu manh ác độc, con em nhà quyền quý bình thường. Tào Tháo “tài võ tuyệt vời, không ai hại nổi, bác học quần thư, nhiều nhất là binh pháp”, đúng là nhân tài mà loạn thế đang cần. Vì vậy Kiều Huyền rất tin tưởng Tào Tháo, gửi gắm cả vợ con, còn đề nghị Tháo kết giao với Hứa Thiệu, xem Hứa Thiệu nói thế nào.
Hứa Thiệu tự Tử Tương, người Bình Dư, Nhữ Nam (nay là Bình Dư, Hà Nam) là nhà bình luận, nhà giám thướng nổi tiếng nhất thời đó. Thường cứ vào mùng một hàng tháng, Hứa Thiệu bình phẩm nhân vật đương thời, gọi là “Nguyệt đán bình”, còn gọi là “Nhữ Nam Nguyệt đán bình”. Bất luận là ai, một khi được bình, thì thân giá cao lên gấp bội, người đời lưu truyền, coi đó là lời đẹp. Nên nhớ rằng, thời Lục triều Hán Nguỵ, bình phẩm nhân vật là việc lớn trong xã hội. Bất kỳ ai, muốn bước vào xã hội thượng lưu, buộc phải có sự giám định của nhà phê bình quyền uy, qua đó quyết định thân giá của mình, giống như trong thị trường nghệ thuật được các nhà phê bình quyền uy cho là tốt, mới bán được giá cao. Đương nhiên Tào Tháo cũng hy vọng có được lời bình tốt từ Hứa Thiệu, nhưng phải chăng bình phẩm Tào Tháo rất khó, nên Tào Tháo chỉ nhận được lời bình như mọi người đã biết: “Là năng thần trị thế, là gian hùng thời loạn”. Nghe nói để có được lời bình của Hứa Thiệu, Tào Tháo đã mất nhiều tâm sức, nhưng mặc cho Tào Tháo cầu xin đến mấy, Hứa Thiệu vẫn không chịu nói. Cuối cùng, bị bức đến hết cách, Hứa Thiệu mới nói ra câu đó. Và như vậy, chúng đã hiểu rõ cuộc đời Tào Tháo tận khi đậy nắp quan tài.
Hiển nhiên, Hứa Thiệu cũng đã thấy rõ Tào Tháo là một nhân vật. Còn như là năng thần hay là gian hùng, còn phải xem Tào Tháo ở trị thế hay loạn thế”(2).
Trở thành nhân vật, là tố chất; ở vào thời nào lại là vận khí.
Vận khí Tào Tháo không tốt, Tào Tháo ở vào thời loạn, là gian hùng, e đó là điều định sẵn. Thực tình thì ngay từ đầu, Tào Tháo đã muốn là năng thần. Năm 174 Công nguyên, hai mươi tuổi, Tào Tháo được cứ là hiểu liêm. Hiểu là hiểu tứ, liêm là liêm sỉ, có được xưng hiệu đó là có được bước thứ nhất vào chốn quan trường, giống ngày nay có bằng cấp là có khả năng thi làm quan chức. Ít lâu sau, Tào Tháo được bổ nhiệm làm Bắc bộ uý thành Lạc Dương, phụ trách trị an phía bắc thành Lạc Dương. Là chức quan không to (bổng lộc 400 thạch), quyền không lớn, nhưng trách nhiệm lại rất nặng, rất nhiều phiền hà. Dưới chân thiên tử, quyền quý đông đúc, đố ai dám đụng tới họ! Nhưng công việc trị an trên phần đất kinh đô không thể không duy trì. Nên vừa tới nhiệm sở, Tào Tháo đã thay mới toàn bộ viên chức nơi nha môn, cho làm nhiều chiếc gậy năm mầu, treo ở mỗi bên cửa lớn mười chiếc. “Ai phạm lệnh cấm, kể cả cường hào, đều bị đánh chết”. Sau đó mấy tháng, quả nhiên có người tìm đến xin chết. Đó là chú của hoạn quan Kiển Thạc được Linh đế sủng tín. Ỷ thế có đứa cháu miệng thét ra lửa, hắn không thèm để ý tới lệnh cấm của Tào Tháo, ngang nhiên vi phạm lệnh cấm đi đêm. Tào Tháo rất tỉnh táo, lập tức cho lấy gậy năm màu đánh chết hắn. Đúng là giết một, hàng trăm người phải sợ, “kinh đô thu mình lại yên ổn không ai dám phạm”, tình hình trị an chuyển biến tốt, Tào Tháo làm chấn động cả trong triều ngoài dã.
Chừng từ năm 174 xuống núi, năm 189 khởi binh, trong vòng mười lăm năm, Tào Tháo vẫn còn muốn là năng thần. Tào Tháo từng là Bắc bộ uý Lạc Dương, Tế Nam tướng (thành cổ ơ phía đông huyện Lịch Thành, Sơn Đông ngày nay), điển quân Hiệu uý… Trong đó, một lần bị miễn chức, hai lần từ quan, ba lần bị triệu làm Nghị lang. Trong chốn quan trường chìm nổi, Tào Tháo đã hiểu rõ mọi chuyện trong triều và quan viên. Tào Tháo thấy rõ, vương triều Đông Hán đã hết thuốc chữa, thiên hạ đại loạn không thể thay chuyển. Và dù không loạn lạc, thì triều đình và quan trường hủ bại kia cũng không cần có “năng thần trị thế”. Tào Tháo từng dâng thư lên triều đình, nói hết mọi điều tệ hại, nhưng như cát lún xuống không có hồi âm. Là Lạc Dương uý, Tào Tháo hành luật nghiêm minh, đả kích cường hào; là Tế Nam tướng, Tào Tháo trị quan sạch dân, địa phương yên bình. Tất cả những điều đó, vẫn chưa đủ để có thể chỉnh đốn triều cường, thay đổi tình thế, cũng chưa thể có nhiều ảnh hưởng. Mọi cố gắng của Tào Tháo cho vương triều sắp tàn lụi, đều như muối bỏ biển, chẳng nên công cán gì, đối với bọn quyền thần hoành hành bá đạo thì chỉ như châu chấu đá voi, trứng chọi với đá. Sở dĩ Tào Tháo còn chưa bị hoạ sát thân vì đằng sau còn có Tào Đầng chống đỡ. Lúc này triều đình lại mượn cớ Tào Tháo “thông tỏ cổ học” nên nhiều lần để Tào Tháo nhận chức Nghị lang, nhàn rỗi có chức không quyền, triều đình không trọng dụng.
Một lần nữa, Tào Tháo không thể không nghĩ lại về chọn lựa con đường của đời mình.
Xem ra, không thể là năng thần trị thế, đành phải là gian hùng vậy.
Kỳ thực, là gian hùng sẽ càng “dễ nghiện” hơn là năng thần. Trung mà vô năng là ngu tối, năng mà không trung là gian, đều không là năng thần. Nhưng chỉ là vừa trung vừa năng, thì chưa đủ, còn phải được mọi người thừa nhận. Rất khó để có được điều kiện thứ ba. Vì vậy, nghi ngờ năng lực của người khác là thứ bệnh thông thường của quan trường; nghi ngờ bề tôi không trung là căn bệnh thông thường của đế vương. Vì vậy năng thần có kết cục tốt trong lịch sử là không nhiều. Khi sống không bị giáng chức thì khi chết cũng bị chửi, là năng thần mà khi sống lẫn khi chết đều không bị người đời đàm tiếu, e chỉ có mình Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng sống rất mệt.
Hình tượng Gia Cát Lượng bị méo mó ghê gớm. Nói chung, mọi người luôn cảm thấy Gia Cát Lượng sống rất thoải mái. Dù gặp bất kỳ chuyện gì thì hầu như Gia Cát Lượng đều biết trước kết quả. Có nhiều mưu kế hay, thậm chí còn viết thành lời, cho vào túi kín, khi gặp việc người chấp hành chỉ cần giở ra xem. Bản thân không chỉ cần ra trận giết giặc, cũng không phải lao tâm khổ tứ, chỉ cần quấn khăn lên tóc, phe phẩy chiếc quạt lông, pha bình trà hoa cúc, bầy bàn cờ vây, rồi “nói nói cười cười mà giặc mạnh đã tan thành mây khói”, thoải mái biết chừng nào.
Kỳ thực, Gia Cát Lượng cũng chịu rất nhiều áp lực tâm lý. Lưu Bị và Gia Cát Lượng, quân thần gặp nhau luôn là tấm gương để đời, được xem là vua nhân tôi trung, vua sáng tôi hiền. Nhất là câu chuyện “ba lần đến lều cỏ” nổi tiếng, đã hàng ngàn năm nay khiến cho những văn nhân rắp ranh ra làm quan lại muốn ra vẻ khệnh khạng kia, thèm muốn đến muốn chết. Thực ra thì giữa hai người luôn có nghi kỵ và đề phòng. Quan hệ vua tôi không phải là quan hệ bè bạn, người được tín nhiệm nhất cũng là người cần nghi ngờ nhất. Vì hai bên quan hệ lâu dài, đi lại thân tình, thấu hiểu ngọn ngành, người kia có bao nhiêu cân lạng, lòng dạ người này đã tính toán đủ. Đó là điều không thể đề phòng. Hãỵ nhớ lại câu chuyện gửi con ở thành Bạch Đế, bề ngoài như không có đề phòng gì cả, vô cùng tín nhiệm, kỳ thực đó là nghi kỵ, đề phòng rất kín kẽ. Lưu Bị nói với Gia Cát Lượng, ta giao phó đứa trẻ này cho ngươi. Nếu thấy nó còn được thì giúp nó, không được thì phế bỏ, lấy mà thay. Đó là nói vui! Lưu Thiện vô năng! Rõ ràng là vậy, sao còn phải xét phải dùng? Chính vì biết rõ, Gia Cát Lượng tài “gấp mười lần Tào Phi” sợ con mình không được trọng dụng, nên không yên tâm, nên đã cố ý nói thật rõ, nói bằng hết. Gia Cát Lượng là người thông minh, đã tỏ thái độ: “Hạ thần dám đem hết sức phò tá, tỏ hết dạ trung trinh cho đến chết”, quyết một lòng giúp A Đẩu, tuổi bằng cậu học sinh cấp ba, mà trí tuệ bằng cậu học sinh cấp hai.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyWed Jul 23, 2014 11:54 am

Trần Thọ nói, Lưu Bị gửi con “lòng dạ ngay thẳng, quân thần thành thực chí công, nếp sống của muôn đời”, nói như vậy nếu không phải nịnh bợ thì cũng là mù tịt. Đúng như lời Tôn Thịnh, nếu gửi con cho người tốt, việc gì phải nói mấy câu vô bổ đó, nếu gửi con cho người xấu, hoá ra đã chỉ đường cho họ làm phản. “May sao Lưu Thiện lại yếu đuối ngu tối, không hay nghi ngờ, Gia Cát thì uy lược, đủ để kiểm soát tình hình, những kẻ khác ý, không làm được gì”. Nói như vậy chỉ đúng được một nửa. Lưu Bị gửi con thành công vì Gia Cát Lượng đã nhận lời và ông là người biết giữ lời, cẩn thận, tỉ mỉ, nên mới không xảy ra chuyện. Còn như nói Lưu Thiện không nghi kỵ, thù hằn là không đúng. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, dân chúng các nơi trong Thục đều tưởng nhớ, muốn dựng miếu thờ, Lưu Thiện không phê chuẩn, nói là “chưa hề có tiền lệ”. Rõ ràng trong thâm tâm, Lưu Thiện có thù sâu oán nặng với Gia Cát Lượng. Sự thực thì một hoàng đế dễ dàng ghen tỵ với một đại thần năng lực hơn mình, hơn nữa với một người đầu óc không thông tuệ, thì ghen tỵ, thù hận càng sâu đậm. Vì vậy, tất cả những kẻ kém cỏi đều giống nhau, chỉ cần có quyền lực, liền cảm thấy mình là nhất, rồi huyênh hoang. Một khi thấy cấp dưới mạnh hơn mình, liền tự hổ thẹn thành giận dữ, quyết tìm mọi cách để loại bỏ. Lưu Thiện cũng như vậy, chỉ vì có tâm giặc không có gan giặc, có gan giặc lại thiếu sức giặc, nên đành phải làm một chút gì đó sau lúc Gia Cát đã qua đời, để uy phong một chút, tỏ ra mình cũng là một nhân vật.
Cho dù Lưu Thiện thực bụng coi Gia Cát Lượng “như cha mình” thì cũng còn ý nghĩa gì. Thực ra thằng cha này quá ngốc. Không chỉ là ngốc mà còn vô lương tâm. Sau khi là tù binh, Lưu Thiện được đưa về Lạc Dương, được phong An Lạc huyện hầu. Một hôm, Tư Mã Chiêu mời Lưu Thiện ăn cơm, trong bữa ăn có đồng ý cho biểu diễn bài ca nước Thục. Các cựu thần nước Thục ngồi nghe đều rơi lệ, chỉ có Lưu Thiện là không, chỉ lo ăn uống, “cười vui như không”. Tư Mã Chiêu ngậm ngùi nói, một người vô tình tới mức này sao (con người vô tình tới mức này)! Một hôm khác Tư Mã Chiêu hỏi Lưu Thiện: “Có nhớ nước Thục lắm không?”. Lưu Thiện trả lời luôn: “Ở đây vui lắm, không nhớ nước Thục”. Cựu thần Khích Chính nghe vậy đã nói với Lưu Thiện, lần sau có người hỏi thì nói là phần mộ tổ tiên đang ở xa tận Lũng, Thục, không ngày nào là không tưởng nhớ, sau đó thì nhắm mắt lại. Sau này Tư Mã Chiêu lại hỏi, Lưu Thiện đã nói và làm đúng như vậy. Tư Mã Chiêu nói, nghe như là lời của Khích Chính vậy! Lập tức Lưu Thiện mở mắt, vừa sợ vừa vui nói: “Đoán đúng rồi, chính là ông ấy!”. Mọi người chung quanh đều không nhịn được cười. Đương nhiên, cũng có thể là để giữ mạng, Lưu Thiện đã vờ ngốc. Nhưng dù là vờ ngốc, Lưu Thiện cũng không có lương tâm. Trên thực tế, ngoài câu nói “ở đây vui lắm, không nhớ Thục”, Lưu Thiện không có cống hiến gì cho lịch sử Trung Quốc. Liệu có ý nghĩa gì khi phò tá loại người như vậy?
Vì thế, Gia Cát Lượng rất mệt. Vừa muốn lấy thiên hạ, vừa phải dỗ trẻ con, vừa sợ mấy ông già khác ý, vừa sợ nhỏ không vui, có thể không mệt sao? Trong thực tế, Gia Cát Lượng không giống quân sư mà giống quản gia. Từ việc lớn đến việc bé, Gia Cát Lượng đều phải để mắt tới, tự xem tự làm, tức là “tự mình làm”. Do tình thế ép buộc, do tính cẩn thận nên Gia Cát Lượng phải làm vậy. Nếu không làm như vậy, thì làm sao có thể nắm quyền lớn mà dân không nghi? Gia Cát Lượng rất sợ phạm phải sai lầm!
Lao động mệt mỏi đã tổn hại sức lực của Gia Cát Lượng, áp lực nặng nề khiến Gia Cát Lượng mất ăn mất ngủ(3). Năm 234 Công nguyên, Gia Cát Lượng ngã bệnh và qua đời ở Ngũ Trượng Nguyên, trên đường Bắc phạt, hưởng thọ năm mươi tư tuổi, ít hơn Tào Tháo mười hai năm. Gia Cát Lượng vốn người rất khỏe. Trần Thọ nói Gia Cát Lượng “thân cao tám thước, dung mạo rất đẹp, người người khen ngợi”, là một trượng phu anh tuấn. Nếu không vì lao động quá sức, tâm lực hao mòn, sao có thể qua đời vào những năm tháng đầy sức sống như vậy?
Gia Cát Lượng đã thực hiện xong lời hứa: “cúc cung tận tuy cho đến lúc chết”. Thực tình thì Gia Cát Lượng vì mệt mà chết(4).
Làm hoàng đế đương nhiên là tốt, có điều phải xem xem làm như thế nào, và muốn làm nhưng không làm nổi. Nếu làm như Lưu Hiệp (Hiến đế) thì thà đừng làm, nếu giống như Viên Thuật thì ngang như tìm đến cái chết.
Con người Viên Thiệu tỏ ra rất ngang bướng. Viên Thuật xuất thân thế tộc, môn đệ cao quý. Cao tổ phụ Viên An là Tư đồ thời Chương đế. Thúc thái tổ phụ Viên Thưởng là Tư không; Tổ phụ Viên Thang từng là Tư không, Tư đồ, Thái uý; cha là Viên Phùng làm Tư không; chú Viên Quỳ là Thái phó. Quan chế thời Đông Hán, Thái uý, Tư đồ, Tư không gọi là “tam công”, coi sóc mọi việc, địa vị cùng quyền hạn cao nhất trong trăm quan. Bốn đời tổ tiên nhà Viên Thuật, từ các cụ đến cha, đều có người nhận chức tam công, nên gọi là “tứ thế tam công”, là gia tộc hiển hách đầy quyền uy nơi chốn quan trường.
Viên Thuật huyết thống cao quý như vậy, nhưng tính tình lại khùng khùng điên điên, thường không coi ai ra gì, kể cả người anh là Viên Thiệu. Viên Thiệu, Viên Thuật đều là con của Viên Phùng. Viên Thiệu tuy lớn tuổi nhưng là con vợ bé, nên gọi là “thứ xuất”. Viên Thuật là em, nhưng là “đích xuất”, vì vậy tự cho mình là cao nhất. Thời kỳ quân phiệt cát cứ, anh em Viên Thiệu, Viên Thuật nắm binh quyền tự lấy làm oai, nhưng thực lực của Viên Thiệu chừng như mạnh hơn, uy vọng tương đối cao, nhân duyên cũng tốt hơn, vì vậy đa phần chư hầu hào kiệt đều dựa vào Viên Thiệu. Viên Thuật từ hổ thẹn thành giận dữ, lớn tiếng mắng bọn chư hầu không biết thế nào là phải trái, là đích thứ, không theo về người có huyết thống cao quý, lại theo kẻ nô tài nhà họ Viên! Còn viết thư cho Công Tôn Toản nói, Viên Thiệu là con của a hoàn, không phải giống nhà họ Viên. Điều đó không chỉ làm Viên Thiệu tức giận, còn tạo nên ảnh hưởng rất xấu, đó chính là nguyên nhân khiến sau này Viên Thiệu thất bại.
Chỉ là kẻ ngông cuồng, tự đại, đầu óc đơn giản đến như vậy mà ngày nào cũng mơ làm hoàng đế. Trong tay Tôn Kiên có ngọc tỉ truyền quốc. Năm 189, thái giám Trương Nhượng cùng một số kẻ khác làm loạn, để rồi sau này ngọc tỉ rơi vào tay Tôn Kiên. Sau khi biết tin, Viên Thuật cho bắt phu nhân Tôn Kiên làm con tin và đoạt lấy. Có bảo bối lại hiểu nhầm mấy câu vè trong dân gian, Viên Thuật cảm thấy, làm hoàng đế Trung Quốc ngoài mình ra không phải ai khác. Mùa xuân năm 197, chờ đợi đã mỏi mòn, Viên Thuật đành chính thức xưng đế. Lúc này Tào Tháo đã nắm Hiến đế trong tay, dời đô về Hứa Xương, có thể “ép thiên tử lệnh chư hầu”, đâu có dễ để Viên Thuật hung hăng bắng nhắng? Tất nhiên, Tào Tháo cần phải loại bỏ thằng hề này. Và Viên Thuật đâu phải đối thủ của Tào Tháo? Kết quả là bại rồi lại bại. Năm 199, Viên Thuật binh bại như núi lở, chúng phản thân ly, cuối cùng tự thấy mình không thể là hoàng đế liền quyết định chuyển ngọc tỉ truyền quốc sang cho Viên Thiệu. Vì đây là bảo bối, Viên Thuật không nỡ vứt, cũng không thể tuỳ tiện đem cho người khác, chuyển sang cho anh là hợp lý (lúc này đã nhận Viên Thiệu là anh em), gì thì gì vẫn là người họ Viên. Nhưng ngay cả ý nghĩ đó, Viên Thuật cũng không được như ý, vì Tào Tháo đã phái Lưu Bị chờ sẵn ở Hạ Bì (thành phố Bì Châu, tỉnh Giang Tô ngày nay) chờ Viên Thuật đến nộp mạng. Không còn cách nào khác, Viên Thuật đành phải quay về Hoài Nam. Lúc chạy đến Giang Đình, cách Thọ Xuân (nay là huyện Thọ, An Huy) tám mươi dặm, Viên Thuật ngã bệnh, ô hô ai tai, làm hoàng đế được ba năm rưỡi, nhưng là giả, không ai công nhận.
Nghe nói Viên Thuật chết rất thảm. Lúc Viên Thuật chết, xung quanh không còn chút lương thực nào. Hỏi nhà bếp và được trả lời, còn ba mươi hộc lúa mạch (mười đấu là một hộc). Nhà bếp nấu và bưng lên, nhưng Viên Thuật không thể nuốt được. Bấy giờ là tháng sáu, trời nóng như thiêu như đốt, Viên Thuật muốn uống một chút mật ong nhưng cũng không có. Viên Thuật một mình trên giường, than thở hồi lâu, rồi đột nhiên kêu lên rất thảm. Viên Thuật ta, sao có thể rơi vào tình thế này? Gào xong thì ngã vật xuống đất, nôn ra hơn đấu máu và nhắm mắt.
Lẽ ra Viên Thuật đã phải nghĩ, mình sẽ có kết cục như thế này. Ngay từ khi hắn có ý xưng đế, rất nhiều người đã khuyên Viên Thuật không nên manh động làm bừa. Người thân hơn như Bái tướng Trần Khuê không tán thành, mấy thuộc hạ như Diêm Tượng và anh em Trương Phạm, Trương Thừa cũng không tán thành, Tôn Sách từ Giang Đông có thư tới phản đối. Diêm Tượng nói, năm đó Chu Văn vương có tới hai phần ba thiên hạ” mà vẫn thần phục nhà Ân. Nay ngài không bằng Chu Văn Vương, Hán đế cũng không phải Ân Trụ vương, sao có thể lấy mà thay? Trương Thừa đại diện cho Trương Phạm cũng nói, lấy được thiên hạ hay không là “ở đức không ở đông”. Nếu mọi người theo về, thiên hạ ủng hộ, thì có là một thất phu, cũng có thể thành vương đạo bá nghiệp. Đâu có phải, cứ là con nhà quyền quý mới làm được hoàng đế. Tiếc rằng, những lời trung khó nghe đó, Viên Thuật đều bỏ ngoài tai. Rõ ràng Viên Thuật đã tối mắt vì lợi.
Chỗ ngu xuẩn nhất của Viên Thuật, khi mọi người đều đang muốn làm hoàng đế, nhưng đều không dám lộ mặt thì Viên Thuật đã nôn nóng, vội giơ đầu chịu báng. Nên nhớ, một trong những truyền thống văn hoá Trung Quốc là “bắn con chim ra trước”, “thanh rui lộ ra ngoài dễ bị mục”. Nhất là trong đám quần hùng cát cứ, thế lực ngang nhau, đích ngắm của mọi người sẽ là đầu kẻ ra trước. Bọn Viên Thiệu hiểu được điều đó, nên dù có ham muốn đến mấy, họ cũng cố nhịn. Tào Tháo càng sáng suốt hơn. Tôn Quyền khuyên Tháo xưng đế, Tháo đã nhìn thấu mưu mô của Tôn Quyền, thằng nhóc này muốn đẩy ta lên chảo lửa đây! Viên Thuật đã không hiểu. Thuật cho rằng mình cứ xông lên sẽ chiếm được thế mạnh, liệu mọi người còn làm được gì! Vì vậy Thuật vội vã tuyên bố mình là hoàng đế. Nào ngờ xưng hiệu hoàng đế không phải thương hiệu, Thuật cũng không phải là vừa, kết quả không chỉ tự ném mình vào lửa mà còn chơi với lửa nên đã bị lửa thiêu.
Trong thực tế, có làm được hoàng đế hay không, không liên quan gì tới việc giành trước giành sau, mà quan hệ tới thực lực và điều kiện lúc đó. Và dù điều kiện có thuận lợi, cũng phải làm cho khéo, phải vờ từ chối, nhường nhịn, sau ba lần như vậy, mới giả bộ thuận theo ý trời, lòng dân mà nhận, tuy trong bụng còn đầy ấm ức. Đương nhiên đó là điều giả dối. Nhưng người Trung Quốc luôn làm như vậy. Nếu không giả dối như vậy, e sẽ bị coi là đồ vô sỉ. Viên Thuật không có điều kiện và thực lực, lại không tuân theo trình tự các thao tác đã định, nên Thuật không chỉ là kẻ thù của Tháo và những người khác, mà còn là kẻ thù của nền văn hoá Trung Quốc. Thêm vào đó, Thuật “bản tính kiêu ngạo, cho mình là nhất, không lo phép tác, xa xỉ vô độ, ngang nhiên vơ vét, coi dân như cá thịt, nên càng mất lòng dân. Dưới sự cai trị của Thiệu, Giang Hoài rỗng không, nhân dân phải ăn thịt lẫn nhau. Còn Thuật, ngày ngày sơn hào hải vị, binh sĩ dưới quyền thì người người chết vì đói, chết vì lạnh. Một loại vô liêm sỉ như vậy không thất bại mới là lạ!
Chú thích


(1) Trong kinh kịch hoặc hý khúc Trung Quốc, vai diễn vẽ mặt trắng là vai phản diện, gian ác (BTV).
(2) Gọi là “năng thần trị thế, gian hùng thời loạn”, có thể giải thích là năng thần trị lý thiên hạ, gian hùng nhiễu loạn thiên hạ, như vậy, gian hay năng còn tuỳ thuộc vào nguyện vọng chủ quan của Tào Tháo. Ở đây không bàn tới (Tác giả).
(3) Gia Cát Lượng từng dâng biểu lên Lưu Thiện nói: “Từ ngày nhận mệnh, ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng?”.

(4) Thục - Nguỵ giao chiến, đối đầu ở Ngũ Trượng Nguyên. Thục sứ đến doanh trại quân Nguỵ, Tư Mã Ý không hỏi việc quan, chỉ hỏi việc ăn uống nghỉ ngơi. Khi nghe nói Gia Cát Lượng tinh mơ đã dậy, tận khuya mới đi nằm, từ những việc như phạt quân hai mươi gậy cũng hỏi tới, liền đoán định luôn: “Lượng rồi sẽ chết!” (Tác giả).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyFri Jul 25, 2014 11:12 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
TÀO THÁO
- 2 -
Thiên tài và xuẩn tài.
Rõ ràng, Tào Tháo thông minh hơn nhiều.
Không phải Tào Tháo không có thực lực, điều kiện để làm hoàng đế. Nếu như nói, chí hướng ban đầu của Tào Tháo chỉ là làm một năng thần, hoặc là sau khi qua đời, có được dòng chữ trên bia mộ: “Mộ của cố Chinh tây tướng quân Tào hầu”, vậy thì, sau này Tào Tháo lại tự giác hay vô giác đi vào con đường thẳng tới ngôi vị đế vương, cuối cùng chỉ còn cách đó một bước. Năm 196, Tào Tháo ép Hiến đế (một cách khách khí) phải dời đô về huyện Hứa, đổi hiệu thành Kiến An, bắt đầu trở thành nhân vật quyền thế nhất trong triều. Năm 208, phế bỏ tam công, Tào Tháo là thừa tướng, nắm trọn đại quyền. Năm 213, Hiến đế xuống chiếu, đem mười quận Hà Đông sách phong Tào Tháo là Nguỵ công, ban thêm cửu tích(1). Tháng bảy cùng năm, Tào Tháo cho lập tông miếu xã tắc của Nguỵ quốc ở Nghiệp thành; tháng mười một, Nguỵ quốc thiết lập thượng thư, thị trung và lục khanh, thực tế Tào Tháo đã trở thành vua của một công quốc. Năm 214, Tào Tháo bắt đầu hưởng thụ đãi ngộ của tước vương. Năm 215, Hiến đế cho Tào Tháo quyền phân phong chư hầu, nắm quyền lực thái thú và quốc tướng. Năm 216, Hiến đế tiến phong Tào Tháo là Nguỵ vương, thừa tướng Nguỵ quốc đổi là tướng quốc, tập tinh kỳ của thiên tử, ra vào xưng cảnh tất(2). Về sau Tháo còn được hưởng những nghi lễ dành riêng cho thiên tử, như mũ có mười hai chuỗi ngọc. Đến đây, Tào Tháo không chỉ nắm trọn chính quyền nhà Hán, mà về hình thức đã giống như thiên tử nhà Hán, khác chăng chỉ là danh hiệu hoàng đế.
Nhưng Tào Tháo lại không cần.
Phải chăng Tào Tháo không muốn? Không. Liệu có ai không hiểu làm hoàng đế là tốt, có ai không muốn làm hoàng đế? Thời đó, đúng như lời Vương Xán nói với Lưu Tông “nhà nhà muốn là đế vương, người người muốn là công hầu”. Tào Tháo chưa có điều kiện chăng? Cũng không phải. Miền bắc Trung Quốc về cơ bản đã thống nhất, Hán thiên tử đã chẳng còn gì, trong ngoài, trên dưới triều đình đều là người của Tào Tháo, quân lính của Tào Tháo chỉ còn chờ Tào Tháo ra lệnh.
Tào Tháo bỏ không làm hoàng đế, tất nhiên, đó là mưu sâu chí xa của Tào Tháo và đồng thời cũng là nỗi khổ tâm của Tào Tháo. Thì ra, Tào Tháo đã dựa vào cái gọi là “hưng nghĩa binh, trừ bạo loạn, phò tá thiên tử, vương thất”. Bắt đầu khởi binh từ năm 189, đánh Đổng Trác, Viên Thuật, giết Lã Bố, dụ hàng Trương Tú, đánh Viên Thiệu, bình Ô Hoàn, diệt Lưu Biểu, đuổi Tôn Quyền, định Quan Trung, đánh Lưu Bị, luôn với danh nghĩa tôn Hán, giương cao ngọn cờ đánh đuổi nghịch tặc. Sau khi để Hiến đế dời đô, còn là “phụng thiên tử lệnh kê không thần phục”.
Đó là vốn liếng chính trị của Tào Tháo và cũng là gánh nặng về chính trị của Tào Tháo. Tào Tháo còn phải gánh tiếp phần gánh nặng đó. Vứt bỏ gánh nặng đó cũng đồng thời là vứt bỏ ngọn cờ của mình. Không còn ngọn cờ đó, Tào Tháo sẽ dựa vào cái gì để hiệu triệu thiên hạ, thu phục lòng dân?
Đúng vậy, trong đấu tranh chính trị, ngọn cờ là quan trọng nhất. Viên Thuật mất cờ, thân bại danh liệt; Viên Thiệu giương cờ không cao, nhà tan người mất; Tôn Sách, Lã Bố, Lưu Biểu không cờ hiệu, cũng chẳng làm nên trò trống gì; Lưu Bị dựa vào danh nghĩa là hoàng thúc, giương cao cờ, để từ không thành có, từ yếu thành mạnh. Những bài học kinh nghiệm trước mắt, Tào Tháo không thể không biết.
Vì thế, Tào Tháo đã nhiều lần bộc bạch với người thiên hạ: Tào mỗ tuyệt không cướp ngôi nhà Hán! Nhiều nhất là muốn làm Tề Hoàn công, Tấn Văn Công hoặc Chu công. Thành vương lúc nhỏ, nếu không có Chu công, há chẳng bị Quản Thúc, Sái Thúc thoán vị rồi sao? Như hiện nay, nếu không có Tào mỗ, thì không rõ “đã mấy người xưng đế, mấy người xưng vương”? Đó là sự thực và rất phiền hà. Vì việc không cho người khác làm, thì chính mình cũng không nên làm hoặc ít ra cũng đừng làm một cách trắng trợn. Luôn đi “bắt giặc” lại thành giặc, chẳng phải là giặc lại hô hào bắt giặc hay sao? Việc giặc hô hào bắt giặc, không phải Tào Tháo chưa từng làm, nhưng việc cướp nước không giống như việc cướp dâu, không thể không nói tới sách lược chính trị.
Hơn nữa, trong thâm tâm Tào Tháo cũng đã rõ, Lưu Bị, Tôn Quyền và mấy người trong triều đều không chịu an phận. Trong số họ có người muốn làm hoàng đế, có người muốn làm công thần, có người muốn mượn gió lật thuyền, nhờ nước đục thả câu, chỉ là họ không nói ra, không nói ra được, họ âm thầm lặng lẽ, chờ xem Tào Tháo làm như thế nào. Đương nhiên, cũng có những người gọi là chính nhân quân tử thực lòng thực bụng bảo vệ Hán thất. Họ luôn cảnh giác, chú ý mọi cử chỉ, lời nói việc làm của Tào Tháo. Nếu có gì sai, họ liền hợp lại để công kích. Nếu hậu viện bốc lửa thì cánh Lưu Bị, Tồn Quyền sẽ mừng rỡ, để rồi lửa đổ thêm dầu, thừa cơ làm loạn, bắt tay với phái phản đối trong triều, tìm cách chống trả. Nếu như vậy, thì thời cục sẽ rối ren, những thành quả thắng lợi sắp đến tay, bỗng dưng sẽ mất sạch.
Tào Tháo biết quá rõ lợi và hại. Tốt thôi, các người không nói, ta cũng không nói. Các người vờ vĩnh, ta cũng vờ vĩnh. Tới lúc đó, xem ai là người không nhịn được? Đấu tranh chính trị là một nghệ thuật, chỉn chu nhất sẽ là dưa chín cuống rụng, cái gì đến rồi sẽ đến. Nếu khinh suất manh động quá sớm là hành động mù quáng, bị dẫn dụ mà không lộ tài mới là cao thủ. Tào Tháo là cao thủ, biết kìm nén nhẫn nhịn.
Vì vậy, lúc Tôn Quyền dâng biểu xưng thần, thuộc hạ hết lời khuyên can, Tào Tháo mưu sâu chí xa, chỉ nói một câu thật thâm thuý: “Khổng Từ từng nói, chỉ cần có ảnh hưởng tới chính trị là đã tham chính, việc gì còn phải làm tới chức này chức nọ? Nếu thiên mệnh trao cho ta, ta làm Chu Văn vương là được rồi!”.
Lời nói đầy tính sách lược, rất sinh động, đầy đủ ý tứ. Nó nói rõ, bản thân Tào Tháo không có ý tiếm ngôi, nhưng cũng không loại trừ khả năng, con cháu sau này có thể thay triều đổi đại. Còn như bọn Tào Phi có làm điều đó không, còn phải xem thiên mệnh và khả năng của chúng. Làm được, ta là thái tổ, làm không xong, ta là trung thần. Tào Tháo tính toán thật tuyệt.
Huống hồ Tào Tháo còn là người thực dụng. Tào Tháo có câu danh ngôn: “Đừng mộ hư danh mà chuốc lấy hoạ thực”. Chỉ cần bản thân có đầy đủ mọi thứ của thiên tử, còn cái hư danh gây tranh chấp rắc rối kia thì thiết gì!
Sách lược của Tào Tháo là chơi con bài hoàng đế.
Hoàng đế là con bài hay, vừa hư vừa thực. Nói là hư vì lúc này hoàng đế, đừng nói tới “cương nghị độc đoán” mà ngay cả bản thân cũng mất tự do, luôn phải nghe theo người khác, khác gì con rối? Vì vậy, hoàng đế là con bài có thể nắm trong tay. Nói là thực, vì không ai dám nói nó là giả, là không cần, mặc dù biết nó là giả, là thứ đồ trang trí, giống như truyện cổ tích, không ai dám bảo hoàng thượng cơi truồng. Mỗi khi hoàng đế ra chỉ thị, có hiệu lệnh, mọi người đều làm ra vẻ phục tùng (có một sô việc đã được làm) không dám ra mặt phản đối. Vậy, đó là quân bài có tác dụng, hơn nữa còn là vương bài.
Tào Tháo vốn chưa đủ tư cách để chơi con bài này. Người có tư cách nhất là Viên Thiệu.
Viên Thiệu là tứ thế tam công, có địa vị chính trị quân đông đất rộng, có sức mạnh quân sự. Nếu Viên Thiệu muốn nghênh đón thiên tử, người khác đành phải nhường. Hơn nữa, Thư Thụ - mưu sĩ của Viên Thiệu cũng thường xuyên nhắc nhở điều này. Nhưng tiếc là Viên Thiệu tầm nhìn hạn hẹp, chí lớn tài mọn. Các mưu sĩ khác bên cạnh cũng đều là hư danh, nhìn không ra. Theo quan điểm của những kẻ thiển cận đó, vương triều nhà Hán trải bao giống tố bão bùng, khí số đã hết, vậy khôi phục Hán thất liệu còn có ý nghĩa gì? Đã không tính tới chuyện cứu thời độ thế, chỉ cần nắm quyền qua chiến tranh chết chóc, thì việc nghênh đón hoàng đế là không cần thiết. Để thứ bảo bối đó ở bên mình, để ngày ngày phải xin chỉ thị, việc việc phải bẩm báo, thì phiền phức quá. Nghe lời hoàng đế, thì mình chẳng có vai trò gì, không nghe lời thì lại trái lệnh, biết theo ngả nào? Còn Viên Thiệu thì sao, cứ nghĩ đến việc Đổng Trác đã lập Hiến đế, lại thấy hận thấy ghét, nên đã xoá bỏ ý nghĩ nghênh đón Hiến đế.
Thực ra, đó là ý nghĩ thiển cận của đám ếch dưới đáy giếng. Nên nhớ, dù đó là ý kiến của Mao Giới với Tào Tháo “phụng thiên tử lệnh những kẻ chưa thần phục”, dù là ý kiến của Thư Thụ với Viên Thiệu “ép thiên tử lệnh chư hầu”, đều không thực lòng muốn khôi phục Hán thất đã mục rỗng, mà chỉ là muốn biến Hiến đế thành lá bài để sử dụng, chỉ cần lá bài này là vương bài, thì cần gì phải biết nó từ đâu tới? Trời trên cao, hoàng đế ở xa, nhưng vị hoàng đế kia nếu là con rơi, thì ở gần một chút chẳng phải dễ thao túng, khống chế sao? Thỉnh thị hội báo, khấu đầu hành lễ, đương nhiên là cần. Người có chút đầu óc sẽ hiểu, chỉ cần qua loa một vài nghi thức thì nhất định Hiến đế sẽ phê chuẩn cho bằng hết. Lúc đó Hiến đế mới mười sáu tuổi, hãy còn là trẻ con. Lúc đầu nằm trong tay Đổng Trác, về sau lại do Vương Doãn và những người khác thao túng, chưa bao giờ cầm quyền thực sự. Lý Quyết, Quách Tỵ giao tranh, hai quân đang đối đầu trong thành Tràng An, Hiến đế phái người đến giảng hoà, nhưng không ai theo. Đường đường là một đấng thiên tử, chưa nói đến hiệu lệnh thiên hạ, chỉ làm người hoà giải cũng không thành. Một vị hoàng đế đáng thương như vậy, nếu đến chỗ Viên Thiệu, sẽ làm thiên tử thế nào đây, để được sống tiếp cùng Viên đại nhân? Viên Thiệu cho rằng mình ở xa hoàng đế được tự do, muốn nghĩ gì thì nghĩ, muốn làm gì thì làm. Cách tư duy của Viên Thiệu chẳng khác mấy với bọn “cường nhân” là thảo khấu chiếm núi xưng vương. Khác hẳn với các bậc anh hùng hào kiệt có chí lo cho thiên hạ.
Không thể để mất cơ hội, vì thời cơ sẽ không quay lại. Viên Thiệu còn do dự thì Tào Tháo đã nẫng tay trên. Tào Tháo có Mao Giới bầy mưu tính kế, lại có Tào Chiêu cùng những người khác dựng giàn bắc giáo, nhanh chóng có được con bài hoàng đế trong tay. Lần này đến lượt Viên Thiệu trố mắt ra nhìn: Tào Tháo sau khi nghênh đón Hiến đế dời đô về Hứa Xương, không chỉ không mất gì, không bị khống chế, ngược lại, còn thu được không ít lợi lộc. Tào Tháo được cả một vùng đất rộng lớn về phía nam sông Hoàng Hà, dân chúng vùng Quan Trung lũ lượt theo về. Quan trọng nhất là, Tào Tháo có được nguồn vốn chính trị to lớn, không chỉ là anh hùng phục dựng lại Hán thất, có được vị trí “dưới một người trên vạn người”, mà còn làm cho mọi phái phản đối ở vào vị trí bất lợi, bất nhân bất nghĩa. Từ đó bất kể là làm gì, sai khiến quan lại, mở rộng địa bàn, hay là đánh phá những kẻ khác ý, dẹp bỏ kẻ thù chính trị, Tào Tháo đều có thể mượn danh nghĩa của hoàng đế, dù có bất nghĩa cũng trở thành chính nghĩa. Còn bọn đối thủ thì sao? Chúng rất bị động. Chúng muốn phản đối Tào Tháo, thì trước hết là phạm tội phản đối hoàng thượng. Và dù có giương cao ngọn cờ “Thanh trừng cận thần xấu” cũng còn xa mới bì được với Tào Tháo, có thể trực tiếp với danh nghĩa hoàng đế để xuống chiếu, vừa nhanh gọn, lại vừa lý tình đầy đủ.
Như sau này Viên Thiệu muốn đánh Tào Tháo, Thư Thụ, Thôi Diễm đều nói, “Thiên tử ở Hứa”, công phá Hứa Xương, “là phạm vào điều nghĩa”. Gia Cát Lượng cũng nói, Tào Tháo “ép thiên tử để lệnh chư hầu, điều đó là không thể giành”. Tào Tháo nhanh chân hơn, được nhiều lợi hơn.
Viên Thiệu hối hận, liền nghĩ ra biện pháp để bổ cứu. Viên Thiệu cho rằng Hứa Xương đất trũng, Lạc Dương bị phá huỷ, yêu cầu Tào Tháo dời Hiến đế về Quyên Thành (nay là huyện Quyên Thành, Sơn Đông) cách chỗ mình không xa, để cùng hưởng lợi từ lá vương bài này. Đúng là nằm mơ được lấy vợ, toàn nghĩ ra chuyện hay. Tào Tháo buồn cười và đã nghiêm chỉnh lấy danh nghĩa hoàng đế thảo một đạo chiếu thư gửi cho Viên Thiệu, trách cứ Viên Thiệu: “Đất rộng binh nhiều mà chỉ lo cho mình”, không thấy Thiệu ra quân cần vương, chỉ thấy Thiệu luôn luôn công kích người khác. Viên Thiệu trộm gà không được lại mất toi gạo, chẳng kiếm chác được gì lại bị ăn mắng, vô cùng tức giận, đành phải nuốt giận vào lòng, dâng thư biện bạch. Như vậy, Viên Thiệu đã thua to về chính trị lẫn tâm lý.
Thế rồi, lúc Tào Tháo lấy danh nghĩa hoàng đế bổ nhiệm Viên Thiệu là thái uý, phong Nghiệp hầu, Viên Thiệu liền chối từ. Vì thái uý tuy là trưởng quan quân sự cao nhất cả nước, một trong tam công, nhưng địa vị lại thấp hơn tướng quân. Và đại tướng quân lúc đó không phải ai khác, chính là Tào Tháo, người mà Viên Thiệu luôn xem thường. Vì vậy, Viên Thiệu đã phẫn nộ nói với người khác, lẽ ra Tào Tháo đã chết đến mấy lần rồi, lần nào ta cũng cứu hắn, bây giờ hắn lại giương ngọn cờ thiên tử để ra lệnh cho ta, là cái giống gì thế? Đúng là tính khí trẻ con và hẹp hòi! Ngược lại, Tào Tháo rất độ lượng, hiểu rõ lúc này chưa thể phản lại Viên Thiệu, liền dâng biểu từ chức đại tướng quân để nhường cho Viên Thiệu. Lúc này Viên Thiệu mới yên vì thấy mình không mất sĩ diện. Kỳ thực, Viên Thiệu không ở trong triều nên có hiệu lệnh cũng chỉ quanh quẩn trong địa hạt của mình, vậy là đại tướng quân hay tiểu tướng quân cũng chẳng khác gì nhau. Hơn nữa, đây là chức vụ Tào Tháo nhường cho, vậy có gì là sĩ diện, ngược lại thấy rõ, tính khí quá trẻ con.
Tào Tháo được cả sĩ diện lẫn tình cảm. Đương nhiên Hiến đế cũng được lợi không ít. Trước khi đến Hứa Xương, Hiến đế cùng các quan trọng triều đã gần như là kẻ ăn xin. Lúc đó ở Lạc Dương, từ thượng thư lang trở xuống đều ra ngoài kiếm rau dại ăn, có người đã chết vì đói hoặc bị loạn binh giết chết. Ở đây cuộc sống của họ được cải thiện nhiều, Tháo luôn tỉ mỉ tinh tế, chẳng khác gì một quản gia. Điều quan trọng hơn, Hiến đế đã có chỗ ở ổn định, không còn là thứ hàng hoá đặc biệt không đáng một xu, qua tay hết người này đến người khác, không còn lo sợ một ngày nào đó sẽ bị phế truất, bị sát hại. Hiến đế đã có thần hộ mệnh, được sống những ngày yên bình. Hoàng đế rất nhát gan, sống như một con rối, một con rối đáng thương, nhưng nếu rơi vào tay Viên Thiệu, chắc sẽ còn thê thảm hơn! Hiển nhiên, quan hệ giữa Tào Tháo và Hiến đế chỉ là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi, Tào Tháo thực không đơn giản.
Tài năng chính trị của Tào Tháo đã sớm bộc lộ, nhưng mọi người không nhìn ra.
Trên chính trường cuối thời Hán, ban đầu người ta thấy Viên Thiệu tương đối tốt. Viên Thiệu dáng người đẹp, xử sự không tồi, được nhiều người đi theo. Vì vậy, Viên Thiệu mới được tôn là minh chủ của các lộ chư hầu, quyết định liên minh diệt Đổng Trác.
Kỳ thực Viên Thiệu chỉ được cái tốt mã. Năm 189, Linh đế băng hà, để lại hai người con, Lưu Biện mười bốn tuổi, Lưu Hiệp chín tuổi, về cơ bản không khống chế nổi cục thế. Cục diện chính trị đang chao đảo, tránh sao được cuộc tranh giành phân chia lại lợi ích và quyền thế, và cuộc tranh giành chỉ được hoàn thành sau những mưu mô quỷ kế, những cuộc chinh biến nơi cung đình. Ai mạnh tay ác độc, người đó sẽ được lợi. Vì vậy sau khi đại tướng quân Hà Tiến giết chết kẻ cầm đầu hoạn quan là Kiển Thạc, Viên Thiệu khuyên Hà Tiến đã làm là làm tới, giết cho bằng hết lũ hoạn quan, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, nhưng Hà Tiến thấy khó, vì người em gái của Hà Tiến là Hà thái hậu không đồng ý. Năm đó Hà thái hậu hạ độc Vương mỹ nhân, mẹ đẻ của Lưu Hiệp, suýt nữa bị Linh đế phế truất, may nhờ có hoạn quan xin cho thoát nạn, đương nhiên lúc này thái hậu không muốn xuống tay với hoạn quan, thế rồi Viên Thiệu lại có ý kiến với Hà Tiến, khuyên nên triệu các mãnh tướng ở khắp nơi, nhất là Tịnh châu mục Đổng Trác về kinh, hòng uy hiếp thái hậu. Thực tế thì đây là ý kiến ngu ngốc. Đến như trăm họ cũng đều rõ “mời thần thì dễ, tiễn thần thì khó”, nói chi tới một hung thần như Đổng Trác? E đó là dẫn sói vào nhà. Vả lại đây cũng chưa phải là việc cần làm. Tào Tháo đã nói, muốn giải quyết vấn đề hoạn quan, chỉ cần giết mấy tên hung hãn cầm đầu là xong. Chỉ cần đến một tên ngục lại là được. “Cớ gì phải triệu các tướng từ bên ngoài về?”. Kết quả, khi Đổng Trác còn chưa về kinh, Hà Tiến đã là quỷ dưới đao bọn hoạn quan. Đổng Trác vừa vào kinh, hoàng đế đã bị phế, thái hậu bị đầu độc, Lạc Dương trở thành một biển lửa, điêu đứng hoang tàn, đó đều là những việc tốt Viên Thiệu đã làm!
Đúng là Viên Thiệu rất ngu xuẩn. Viên Thiệu đã dẫn một thế lực ác độc mà chính mình cũng không chế nổi về kinh. Đó là việc không nên làm, dù họ “là quân nhân nghĩa” hay “quân bá vương” cũng không nên! Hoạn quan vốn là những người không có địa vị, lòng dân, không có chính quyền binh lực. Cũng đúng như Tào Tháo đã nói, sở dĩ họ được thể, bởi họ gần gũi hoàng đế và được tín nhiệm. Nếu không được hoàng đế sủng tín, thì họ chẳng là gì cả. Giết gà cần gì đến dao mổ trâu, và chúng ta chưa có con dao đó. Dao ra khỏi vỏ là thấy máu. Không có gà để giết thì phải giết trâu. Lũ Hà Tiến, Viên Thiệu chỉ là con bò ngốc, con trâu bướng bỉnh, đáng phải giết thịt. Nếu không phải Viên Thiệu chủ trương giết bằng hết bọn hoạn quan, bức bọn Trương Nhượng đến chỗ đường cùng, chó cùng rứt giậu, có lẽ Hà Tiến đã không phải chết sớm. Làm chính biến nơi cung đình thì tay phải mạnh, bụng phải ác, nhưng không phải là giết người thành thói, càng không phải giết bừa bãi, giết người vô tội; đòn đánh mạnh nhất chỉ có thể nhầm vào kẻ địch hung hiểm nhất. Trên thực tế, đấu tranh chính trị là nhằm thay đổi nhân sự, phân chia lại lợi ích và quyền lợi, điều chỉnh quan hệ giữa người với người. Được nhiều người ủng hộ thì thắng lợi càng lớn, vì vậy phải “đoàn kết số đông, đánh vào số nhỏ”. Sao lại có thể giống như Viên Thiệu, không hỏi phải trái đúng sai, đã đòi giết bằng hết? Như vậy là tự chuốc thêm địch, mà địch càng đông thì kết quả chẳng hay ho gì.
Tào Tháo không như vậy. Năm 200, Viên Thiệu đại bại trước Tào Tháo ở Quan Độ. Phần lớn quân nhu, châu báu vàng bạc, bản đồ của Viên Thiệu đều rơi vào tay Tào Tháo, bao gồm cả thư tín số người bên Tào Tháo, ngấm ngầm viết cho Viên Thiệu, giấy trắng mực đen, chứng cứ như sơn, phàm những ai từng có thư từ đi lại với Viên Thiệu đều kinh hoàng lo lắng, suốt ngày sống trong sợ hãi. Nhưng Tào Tháo đã hạ lệnh cho đốt hết số thư tín đó. Tào Tháo đã giải thích: “Trong lúc Viên Thiệu còn mạnh, ngay ta cũng chưa biết có giữ nổi mình không, trách gì mọi người!”. Câu ấy lại càng được lòng người chưa nói tới số người còn đang nghi ngờ, đắn đo chọn lựa, ngay cả những người không dính líu gì, đều rất cảm kích trước tấm lòng khoan dung, độ lượng, cách đối nhân xử thế của Tào Tháo.
Tào Tháo nói rất hay, tính toán thật tinh tế. Tào Tháo hiểu rất rõ, một khi sự việc bại lộ, không phải chỉ có một hai người bị xử lý. Vì trong tình trạng địch mạnh ta yếu, thắng thua chưa rõ, thì ai chẳng muốn lo cho mình một đường rút? Khi đó, sô người đứng núi này trông núi nọ không phải là ít. Đương nhiên không phải ai cũng là gián điệp cho bên kia, chẳng qua là số đông muốn dính với cả hai bên, nhưng thế nào là dính thế nào là không, đều chưa được phân rõ. Nhưng theo lý luận phong kiến, không trung tức là phản nghịch. Chỉ cần có thư tín đi lại với Viên Thiệu thi dấu hiệu nghi vấn là thông đồng với địch, có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không rửa sạch. Nếu như truy cứu từng người từng người một, thì e có đến hơn nửa số người không giải thích nổi. Đã không truy cứu được, chi bằng làm ơn làm phúc, không truy cứu nữa là xong. Hơn nữa, làm ơn làm phải cho trót, cho đốt sạch mọi chứng cứ, mọi người yên tâm. Như thế này thì số người có bụng dạ khác sẽ hối hận, sẽ ghi nhớ ân đức; số người vốn trung thành, càng thêm trung thành tận tuy. Như vậy, hơn hẳn cách lôi một đống người ra trừng trị, làm suy yếu lực lượng của chính mình.
Ở đây rõ ràng Tào Tháo thể hiện tố chất thiên tài của nhà chính trị. Nếu nói, Tào Tháo, thể hiện sự thông thái, biết nhìn xa của một nhà chính trị trong chuyện triệu Đổng Trác về kinh, hay lập Hợp Phì hầu làm đế(3), thì với sự việc vừa miêu tả, Tào Tháo đã bộc lộ tính cách anh hùng đại lược của nhà chính trị. Tào Tháo hiểu rõ, bất luận là đấu tranh quân sự hay đấu tranh chính trị, bằng chứng quan trọng nhất là chính nghĩa, nguồn vốn quý báu nhất là nhân tài. Muốn lôi kéo nhân tài, trước hết phải lấy chữ thành để đãi người, thứ đến là chữ tín để có người, thứ ba là biết khoan dung. Con người ta muốn hình muốn vẻ. Trên đời này làm gì có đội ngũ chỉ một mầu? “Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì ai theo?”, đôi khi còn phải vờ vĩnh là hồ đồ. Có vờ hồ đồ mới khoan dung người, biết khoan dung mới được lòng người, được lòng người mới được thiên hạ. Tào Tháo hiểu được đạo lý đó, nên Tào Tháo mới thắng.
Viên Thiệu tầm nhìn không xa, lòng dạ lại hẹp hòi. Trước trận chiến Quan Độ, mưu sĩ Điền Phong đã nhiều lần khuyên can, không nên mạo muội xuất quân, Viên Thiệu đâu có nghe, còn cho nhốt Điền Phong lại. Về sau, lúc tin bại trận về đến Nghiệp thành, có người vào ngục thăm Điền Phong và nói: “Thế này thì huynh lại được trọng dụng”. Điền Phong lắc đầu nói: “Tôi chết là cái chắc!”. Quả nhiên khi về đến Nghiệp thành, Viên Thiệu đã cho giết Điền Phong.
Rõ ràng là Điền Phong biết người biết lòng, liệu việc như thần. Điền Phong quá rõ về con người Viên Thiệu, chí lớn tài sơ, bảo thủ cố chấp, bề ngoài thì khoan hậu nho nhã, trong lòng thì nghi kỵ bạc bẽo. Nếu như thắng trận, trong lòng vui vẻ, thì còn khả năng sẽ cho thả Điền Phong, một mặt để tỏ rõ sự khoan dung đại lượng, mặt khác là tiếc thay cho vị “giáo viên phản diện”, để chứng minh là anh minh vĩ đại. Nay bại trận, từ xấu hổ thành giận dữ, giận dữ phải trút sang cho người khác, lấy đầu người khác để xả giận, giết người nói đúng để che giấu sai lầm của mình. Người như vậy, còn muốn làm hoàng đế, lấy thiên hạ, chẳng phải nằm mơ giữa ban ngày sao?
Chú thích


(1) Cửu tích là chín loại vật khí đế vương làm cho đại thần được ân sủng nhất. Vương Mãng trước lúc chiếm ngôi từng được ban cửu tích (Tác giả).
(3) Năm 188, thái thú Kỷ châu Vương Phần và một số người khác âm mưu phế truất Linh đế, lập Hợp Phì hầu, kéo Tháo vào cuộc, Tào Tháo nghiêm khắc cự tuyệt, về sau sự việc bại lộ, Vương Phần tự vẫn (Tác giả).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyFri Aug 15, 2014 12:51 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
TÀO THÁO
- 3 -
Khoan dung và báo thù
Trong cùng một vấn đề, cách nghĩ và cách làm của Tào Tháo khác hẳn với Viên Thiệu.
Năm 197, Trương Tú đóng quân ở Uyển thành (thành phố Nam Dương, Hà Nam ngày nay) đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo không đổ máu đã giành được thắng lợi, tránh sao khỏi có chút phiêu diêu tự mãn, hành vi thiếu kiểm soát, hành động không cân nhắc. Tào Tháo đã cưỡng ép, bắt người thím của Trương Tú (vợ của Trương Tế) làm thiếp, khiến Trương Tú cảm thấy nhục nhã; còn cho người lôi kéo Hồ Xa Nhi, bộ tướng bên cạnh Trương Tú, làm Trương Tú thay mình bị uy hiếp. Thế rồi Trương Tú liền dùng kế của mưu sĩ Giả Hủ, đột nhiên phản kích, Tào Tháo không kịp phòng bị, bị đánh một trận tơi bời khói lửa. Tào Ngang là con cả (người nối dõi, Tào Tháo ưng ý nhất), Điển Vi mãnh tướng (đội trưởng tân binh, Tào Tháo quan tâm nhất) và một người cháu là Tào An Dân đều bị chết trận. Bản thân Tào Tháo cũng bị trúng tên. Trước sự thảm bại lần này, Tào Tháo không hề trách cứ người khác, càng không truy cứu người có chủ trương để Trương Tú đầu hàng, Tào Tháo tự nhận mọi trách nhiệm. Tháo nói với các tướng, ta đã biết sai lầm của ta là ở đâu, từ nay sẽ không bao giờ sai lầm như lần này(1).
Năm 207, Tào Tháo bắc chinh Ô Hoàn, giành được toàn thắng. Đại quân trên đường về, lúc đến ký Châu, trời đông rét buốt, không một bóng người, hành quân liên tục hàng trăm dặm mà không có một giọt nước, quân lương cũng không còn “phải giết hàng ngàn con ngựa làm lương, đào sâu chừng ba mươi trượng mới có nước”. Sau khi về đến Nghiệp thành, Tào Tháo hạ lệnh tra xem những ai là người can gián không muốn mình tiến đánh Ô Hoàn, rồi từng người từng người đều được phong thưởng. Tào Tháo nói, thắng lợi lần này hoàn toàn là do may mắn. Lời khuyên của các vị mới là kế sách vẹn toàn. Vì vậy ta phải cảm tạ các vị, mong từ nay các vị muốn nói gì thì cứ nói, muốn chỉ dạỵ điều gì xin cứ chỉ dạy. Và cũng vào năm đó, Tào Tháo ban bố “Phong công thần lệnh” nói, từ khi ta khởi binh, diệt trừ bạo loạn, trải qua mười chín năm, đánh là thắng, công là vỡ, lẽ nào đấy đều là công lao của ta? Chính là nhờ vào sức lực các vị hiền sĩ đại phu!
Lúc bại trận thì tự kiểm điểm bản thân (dù là kiểm điểm chưa hết, chưa tìm được nguyên nhân thất bại). Khi thắng trận lại cảm tạ người khác, còn cảm tạ cả số người khuyên mình không nên đánh trận này. Tấm lòng và tình cảm đó, thực khác hẳn với Viên Thiệu, thắng trận thì nhận công về mình, bại trận thì giết cả những người khuyên mình không nên manh động. Đó chính là khí độ phi phàm, nhận thức hơn người, giúp Tào Tháo thắng hết kẻ thù này đến đối thủ khác, giúp Tào Tháo ngưng tụ được hết dũng tướng này đến mưu thần khác, ngay cả Trương Tú đã mấy lần bội phản Tào Tháo, thì năm 199 lại đến xin hàng Tào Tháo.
Lần thứ hai Trương Tú đến hàng, cũng là chủ ý của Giả Hủ. Giả Hủ tự Văn Hoà, người Võ Uy, nghe nói cũng kỳ tài như Trương Lương và Trần Bình. Viên Thiệu cho người đến chiêu nạp Trương Tú, Giả Hủ lại chủ trương đến đầu hàng Tào Tháo(2). Giả Hủ có mấy lý do: Thứ nhất, Tào Tháo phụng thiên tử để lệnh thiên hạ, là có ưu thế về mặt chính trị, dựa vào Tào Tháo là danh chính ngôn thuận, như vậy là có lý. Thứ hai, Viên Thiệu người nhiều thế lắm, Tào Tháo người ít thế yếu, chúng ta chỉ có một ít quân, đến với Thiệu thì chẳng thấm vào đâu, đối với Tào Tháo thì đó là “tặng than trong tuyết”(3), hẳn sẽ được xem trọng, như vậy là có lợi. Thứ ba, phàm là những người có chí bá vương, nhất định sẽ không so đo tới ân oán cá nhân, ngược lại họ sẽ coi chúng ta là tấm gương, để bộc bạch với thiên hạ tấm lòng khoan dung độ lượng, lấy đức báo oán của họ, như vậy là an toàn. Vì vậy, dù Viên Thiệu lớn mạnh, Tào Tháo nhỏ yếu và còn có hiềm khích với chúng ta, chúng ta vẫn nên cự tuyệt Viên Thiệu, đến hàng Tào Tháo.
Mọi tính toán của Giả Hủ là hoàn toàn đúng. Trương Tú vừa đến, Tào Tháo đã mừng rỡ, nắm tay Trương Tú, rồi thết tiệc tẩy trần và lập tức bổ nhiệm Trương Tú là Dương Võ tướng quân, phong làm Liệt hầu. Để tỏ rõ thành ý của mình hơn nữa, Tào Tháo liền cho con của mình là Tào Quân lấy con gái Trương Tú, hai nhà trở thành thông gia, giống năm đó, Lưu Bang tiếp đón Hạng Bá, trước Hồng Môn yến, dốc hết tài mua chuộc. Còn như ân ân oán oán năm nào, đương nhiên là không nhắc tới, từ đó, Trương Tú trở thành chiến tướng dũng mãnh của Tào Tháo, Giả Hủ trở thành mưu thần quan trọng ở bên Tào Tháo.
Tào Tháo và Giả Hủ đều là những người thông hiểu về chính trị. Họ đều rõ một đạo lý: Việc tranh giành thiên hạ quỵ kết lại vẫn là sự tranh giành lòng người. Được lòng người là được thiên hạ, mất lòng người là mất thiên hạ. Muốn được lòng người phải biết khoan dung độ lượng và phải có chính sách không tra xét những sai lầm cũ, dù là vờ nhưng phải vờ như thật. Muốn làm được như vậy cần phải có những điển hình, những khuôn mẫu, những tấm gương. Bởi sức mạnh của tấm gương là vô cùng, hơn hẳn những lời nói hay, nói đẹp. Vừa khéo, Trương Tú là tấm gương, là điển hình tốt nhất. Trương Tú đã mấy lần bắt tay với Táo Tháo và lần nào Tào Tháo cũng phải bỏ chạy vì bị đánh cho tơi bời khói lửa. Trương Tú có thù sâu oán nặng với Tào Tháo và là kẻ hàng đấy, phản đấy. Tào Tháo có thể khoan dung với một kẻ như vậy, thì liệu còn ai, Tào Tháo không thể dung? Tào Tháo có thể tin tưởng một kẻ như vậy, liệu còn ai Tào Tháo không thể tín nhiệm? Còn Viên Thiệu, có thể mong người thiên hạ quy thuận theo về chăng, khi mà không thể tín nhiệm ngay cả em mình?
Trương Tú đến thật đúng lúc, lúc này Tào Tháo đang “ép thiên tử để lệnh chư hầu” mới được ba năm, những người không phục trong thiên hạ nhiều vô kể. Danh vọng của Tào Tháo trong xã hội cũng chưa thật tốt. Về sau, Trần Lâm thay mặt Viên Thiệu, khỏi thảo tờ hịch đánh Tào Tháo, Tào Tháo bị mắng chửi thậm tệ, nào là không có đạo đức, có tài nhưng tàn bạo, thậm chí còn nói, “đọc hết sử sách xưa nay thì thấy Tào Tháo là vị quan ác độc tàn bạo vào loại số một”, đúng là một tên lưu manh, một kẻ xấu xa bậc nhất. Muốn gán tội cho người ta thì lo gì không có cớ, trong đó tất phải có chỗ là vu khống, nhưng cũng có một số việc, không có lửa làm sao có khói, Tào Tháo khó lòng làm rõ. Vì vậy, Tào Tháo mong muốn có dịp để bộc bạch tấm lòng rộng lượng và những tình cảm cao thượng của mình; mong muốn có điển hình để chứng minh khả năng khoan dung và trái tim nhân ái của mình. Lúc này Trương Tú đến, Tào Tháo vui mừng khôn xiết. Vì vậy Tào Tháo không chỉ quên hết mọi hiềm khích cũ, còn đặc biệt tín nhiệm Trương Tú, mọi thứ phong thưởng đều cao hơn các tướng lĩnh khác. Đối với Giả Hủ, Tào Tháo vừa cảm kích vừa tán thưởng - cảm kích vì “tặng than hồng trong tuyết”, tán thưởng vì mưu lược hơn người, vì vậy thường mật bàn kế hoạch với Giả Hủ(4). Đấy không còn là lấy đức để phục người, mà là chân thành lôi kéo người tri kỷ. Nếu nói, trí của mưu thần trước hết là “lựa chọn được chủ” (có thể thận trọng và chính xác tìm được đối tượng để phục vụ)(5), vậy minh của quân chủ trước hết sẽ là “biết người và giỏi dùng người. thái nói là, Tào Tháo và Giá Hú rất thành công về điểm này. Sự hợp tác của hai người được coi là một ví dụ thành công trong lịch sử chính trị Trung Quốc.
Giả Hủ phục vụ cho hai đời tập đoàn Tào thị, là thái uý ở triều Văn đế Tào Phi, qua đời năm bảy mươi bảy tuổi, thuỵ là Tiêu hầu, có một kết cục đẹp so với một số người từng hợp tác với Tào Tháo.
Tào Tháo có thể làm được như vậy vì hiểu được nhân tài là của quý. Từ lâu Tào Tháo đã ý thức được, lá cờ chính nghĩa và đội quân tinh nhuệ là hai đại pháp bảo để đánh địch, thắng địch. Ngay từ khi khởi binh đánh Đổng Trác, Viên Thiệu từng hỏi Tào Tháo, nếu đánh giặc Đổng không thành công, nói xem phương diện nào có thể là chỗ dựa, là bằng cứ của chúng ta? Viên Thiệu tự trả lời là: Nam ở Hoàng Hà, bắc chiếm Yên Đại (chỉ vùng bắc Hà Bắc và đông bắc Sơn Đông ngày nay) kiêm lĩnh Nhung Địch (chỉ Ô Hoàn), kéo xuống phía nam giành thiên hạ, Tào Tháo từ từ nói, theo ta, nên dùng hết những người tài trí trong thiên hạ, thống lĩnh họ bằng chính đạo và chính nghĩa thì muốn đông tây nam bắc gì mà không được!(6).
Rõ ràng kiến thức của Tào Tháo hơn hẳn Viên Thiệu. Đó cũng là thái độ sau này, khi Tào Tháo và Viên Thiệu tranh giành thiên hạ: Anh đánh con bài về địa lý quân sự, tôi đánh con bài về nhân tài chính trị, hai ta cứ thử xem!
Đương nhiên, Viên Thiệu không phải đối thủ của Tào Tháo. Ưu thế của Viên Thiệu là vị trí cao và nhiều người. Nhưng kiến thức về chính trị, quân sự đều yếu, về mặt tổ chức cũng chẳng ra gì, không nắm bắt được cơ hội, không biết dùng nhân tài. Bên phía Viên Thiệu cũng có một sô nhân tài, trình độ không hề thấp như Thư Thụ, Điền Phong. Thư Thụ khuyên Viên Thiệu “ép thiên tử để lệnh chư hầu, nuôi quân để đánh kẻ chưa thần phục”, thật giống với kiến nghị của Mao Giới “phụng thiên tử để lệnh kẻ chưa thần phục, lo cày cấy tích trữ quân lương”. Điền Phong còn hơn thế, tính toán chu đáo, liệu việc như thần. Đáng tiếc, Viên Thiệu lại không thực sự tôn trọng số nhân tài đó, Điền Phong bị nhốt lại, Thư Thụ bị gạt sang một bên, Hứa Du tức giận bỏ sang với Thào Tháo, số còn không phải là những kẻ thiếu đức (như Quách Đồ) thì cũng thiếu tài (như Thẩm Phối), nếu không, cũng là kẻ vũ phu (như Nhan Lương, Văn Sú). Cuối cùng, trong số võ tướng còn lại, Trương Hợp là người mưu lược nhất, nhưng Trương Hợp không được Viên Thiệu nghe lời, còn bị Quách Đồ mưu hại, nên cũng phải chạy đến chỗ Tào Tháo, rốt cuộc bên Viên Thiệu toàn tuyến bị tan rã, toàn quân bị tiêu diệt.
Tào Tháo thì ngược lại, Tào Tháo hiểu rõ tầm quan trọng của nhân tài, biết rõ tình thế của mình. “Vượt hàng rào có ba cột chống, một người tài, ba người phụ giúp”, huống hồ về các mặt bối cảnh, vốn liếng, địa vị và thực lực, mình đều không bằng người khác. Vì vậy, Tào Tháo cần rất nhiều người đến ủng hộ, giúp đỡ, nhất là phải tranh thủ sự hợp tác của những người thuộc cao môn thế tộc, làm vốn hiệu triệu. Giúp được thì tốt, mà chỉ đồng loã, lớn tiếng hát để thậm chí chỉ đánh bóng tô màu cũng được. Cần người có tài, cần người có danh, và cả người chỉ có hư danh. Tóm lại ai đến cũng nhận, càng nhiều, càng tốt. Có thể coi là “cầu hiền như khát nước, yêu tài ngang như mệnh”, ngay cả những người trong trại địch, Tào Tháo cũng nghĩ cách để có được, để sử dụng. Tào Tháo có trong tay năm viên đại tướng, ba trong số đó từ doanh trại địch đến: Trương Liêu vốn là bộ tướng của Lã Bố, Trương Hợp vốn là bộ tướng của Viên Thiệu, Từ Hoảng vốn là bộ tướng của Dương Phụng, Nhạc Tiến và Vu Cấm được Tào Tháo đề bạt từ dưới lên. Thực đúng là “trong lúc đánh trận đã đề bạt Vu Cấm, Nhạc Tiến, trong đám tù binh đã tìm được Trương Liêu, Từ Hoảng, tất cả đều liều mình lập công, trở thành danh tướng”. Có không ít mưu thần cũng đến từ phía địch, Hứa Du từ trại Viên Thiệu chạy đến với Tào Tháo, Tào Tháo đi chân không ra nghênh tiếp(7). Khoái Việt và Lưu Tông cùng nhau đến hàng, Tháo vui vẻ nói, không phải ta vui vì được Kinh Châu mà vì được Khoái Việt. Trần Lâm viết hịch văn cho Viên Thiệu, lớn tiếng mắng chửi Tào Tháo, sau khi bị bắt, Tào Tháo cũng chỉ nói: “Muốn mắng thì mắng mình ta là đủ, cớ chi phải mắng cả ba đời tổ tiên ta?”. Trần Lâm tạ tội nói: “Tên đã ở trên dây, không thể không bắn”. Tào Tháo liền cho qua, còn bổ nhiệm Trần Lâm làm Tư không quân mưu tế tửu. Lúc bà mẹ, em trai, vợ và con Tất Kham bị Trương Mạc bắt giữ, Tào Tháo đã nói với Tất Kham: “Lệnh đường đại nhân còn trong tay Trương Mạc, túc hạ nên đến đó!”. Tất Kham dập đầu quỳ lạy, nói mình không có ý khác, Tào Tháo xúc động đến rơi lệ. Ai ngờ Tất Kham vừa quay đi, còn không kịp chào một tiếng, đã phản lại Tào Tháo, chạy sang với Trương Mạc. Về sau Tất Kham bị bắt lại, mọi người cho rằng lần này hắn chết là chắc. Nào ngờ Tào Tháo lại nói: “Người tận hiếu có thể không tận trung sao? Đây chính là người mà ta đang tìm!”. Không những không trị tội Tất Kham, còn để Tất Kham là Lỗ quốc tướng tại Khúc Phụ quê hương Khổng Tử.
Với “thù sâu oán nặng” của Trương Tú, vừa nghe lại hàng, Tháo đã cầm tay vui vẻ, phong quan tiến tước; với “tham lam ngông cuồng” của Hứa Du, Tháo vừa nghe chạy tới đã không nén nổi vui mừng, chân không ra đón; với sự “công kích ác độc của Trần Lâm”, Tháo chỉ vì yêu tài, không hề tính toán, thản nhiên phóng thích; với sự “bội tín, bội nghĩa” của Tất Kham, Tháo chỉ vì lòng hiếu thảo, không tính tới sai lầm, vẫn tín nhiệm như cũ. Còn có người là Nguỵ Chủng, là người được Tào Tháo tín nhiệm nhất, lúc Trương Mạc làm phản, rất nhiều người trở mặt chạy theo Trương Mạc, nhưng Tào Tháo vẫn rất tự tin nói: “Chỉ có Nguỵ Chủng là không phản ta”. Ai ngờ Nguỵ Chủng cũng chạy sang với Trương Mạc, Tào Tháo tức giận, nghiến răng nghiến lợi: “Ngươi giỏi lắm Nguỵ Chủng! Dù có chạy tới chân trời góc biển, ta cũng không tha cho ngươi!”. Quả nhiên Nguỵ Chủng lại bị bắt làm tù binh, lúc này Tào Tháo lại thở dài, nói: “Nguỵ Chủng là nhân tài!”. Lại bổ nhiệm Nguỵ Chủng làm thái thú Hà Nội. Với những câu chuyện như vậy, tấm lòng đại soái, khí độ anh hùng của Tào Tháo lại hiển hiện sinh động trên từng trang giấy.
Tào Tháo khoan dung người, vào những lúc khó khăn nhất, Tào Tháo vẫn có thể chân thành đãi người. Sau khi lại hàng, vừa ngồi xuống, Hứa Du đã hỏi luôn: “Xin hỏi lương thực bên quý quân còn bao nhiêu?”. Tào Tháo không kịp chuẩn bị đã thuận miệng đáp luôn: “Còn có thể cầm cự được một năm”. Hứa Du nói thẳng luôn: “Không đúng. Nói lại!”. Tào Tháo thay đổi nói: “Vẫn còn cầm cự được nửa năm”. Hứa Du cười nhạt: “Có phải ngài không muốn đánh bại Viên Thiệu không? Sao có thể hết lần này đến lần khác không thực lòng?”. Tào Tháo vốn thông minh, biết Hứa Du nếu không nắm được tình báo thì cũng thấu hiểu tâm tư của mình, giấu sao được! Hơn nữa, nếu không nói thực thì khó lòng được Hứa Du tin tưởng và giúp đỡ, nên mới cười, nói: “Vừa rồi là muốn đùa một chút cho vui! Thực tình thì nhiều lắm cũng chỉ đủ được một tháng”. Hứa Du thấy Tào Tháo đã thực lòng, nên mới nói hết những suy nghĩ của mình về tình hình cuộc chiến và cách giải quyết, chỉ cần một trận thì Viên Thiệu sẽ thua to.
Thực tình thì bản tính Tào Tháo là gian trá. “Ít nhạy bén, nhưng tài ứng biến” chỉ là cách nói uyển chuyển khách khí của các sử gia, nói thẳng ra là gian trá. Huống hồ Tào Tháo lại là người cầm quân đánh trận, quân được phép dối trá. Trên chiến trường dùng quỷ kế, nơi quan trường dùng mưu, đó chỉ chuyện thường ngày của đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, chẳng hiến hoi gì, chẳng mất mặt gì, mọi người đều làm như vậy, có điều phía địch gọi là “gian trá giảo hoạt”, bên ta gọi là “túc trí đa mưu”, “xuất kỳ chế thắng”. Tào Tháo thông minh ở chỗ, biết nói dối vào lúc nào, nói thật vào lúc nào. Phụng thiên tử, kế thừa Hán thất, chỉ là mua cổ phiếu chính trị, là lá bài chính thống, không ngại dối trá, tránh sao khỏi phải phô diễn. Nói chuyện với mưu thần, trí sĩ, vì hai bên đều là người thông minh, nếu lại vì hẹp hòi mà dùng mẹo nhỏ, rất dễ bị đối phương phát hiện mà mất tín nhiệm, đúng là “thông minh lại bị thông minh phản”, vậy chi bằng cứ nói thực. Tào Tháo biết rõ phải làm như thế nào. Chỉ có thể như thế, Tào Tháo mới có thể tạo dựng cho mình cục diện “mưu thần như mây, võ tướng như mưa”.
Nhưng nếu như có ai cho rằng Tào Tháo không biết chính trị người khác, không báo thù thì người đó đã phạm sai lầm lớn.
Ý muốn báo thù trong con người Tào Tháo là rất lớn, và một khi đã báo thù thì không bao giờ mềm lòng. Mùa thu năm 193, Tào Tháo thân dẫn đại quân thẳng tới Từ Châu, một vì từ châu mục Đào Khiêm đã câu kết với Công Tôn Toản chống lại Tháo, hai vì Đào Khiêm đã ra quân giúp Viên Thuật tiến đánh; ba vì trước đây hộ tướng Trương Khải của Đào Khiêm đã cướp và giết cha Tháo là Tào Tung và em trai Tào Đức. Thù cha lẽ nào không báo và kẻ thù còn là kẻ địch? Chuyến này thì Đào Khiêm đánh không lại, đành phải trốn về Đàm Thành (huyện Đàm Thành, Sơn Đông ngày nay). Tào Tháo không hạ được Đàm Thành, liền trút giận lên đầu trăm họ Từ Châu. Quân lính được tự do cướp bóc, thực hành chính sách “ba sạch”, trước sau hơn chục vạn người bị giết, chỉ một lần thôi “mấy vạn nam nữ bị giết” bên bờ sông Tứ Thuỷ, xác người chết làm nghẽn cả dòng nước. Nhiều khu vực trong thành Từ Châu “không còn vết tích”, không một bóng người qua lại, đến gà chó cũng bị giết sạch, thực thê thảm hết chỗ nói. Vì vậy năm 195, lúc Tào Tháo định đánh Từ Châu một lần nữa, mưu sĩ Tuân Ngọc nói thẳng, dân quân Từ Châu sẽ chống đối quyết liệt, quyết không đầu hàng, vì lần trước đã quá nhiều người bị giết. Đúng vậy, lần đó Tào Tháo đã báo thù thái quá. Dù Đào Khiêm có phạm tội tày đình, thì nhiều lắm là giết hắn hoặc đồng bọn, liên can gì đến nhân dân trăm họ? Lạm sát nhiều người vô tội như vậy, hẳn là kẻ bệnh hoạn táng tận lương tâm.
Ngay cả Trương Tú, một biểu tượng được Tào Tháo dựng nên hình như cũng bị trả thù. Trương Tú theo chân Tào Tháo bắc chinh Ô Hoàn, đã chết trên đường đi mà chưa rõ nguyên nhân. Sách “Nguỵ lược” nói, Tào Phi đã giết Trương Tú. Trương Tú vì muốn lấy lòng Tào Phi, đã mấy lần mời Tào Phi đến dự hội, nào ngờ Tào Phi đã bực tức nói, ngươi đã giết anh ta, sao còn dám mặt dạn mày dày đến gặp! Trương Tú “tự thấy bất an, nên đã tự sát”. Án tình thực đáng nghi ngờ, nên không bàn tiếp. Nhưng con Trương Tú là Trương Tuyền bị giết là có thật. Trương Tuyền bị giết vì có liên can đến án mưu phản của Nguỵ Phúng. Nghe đâu số người “liên đới bị giết có đến cả ngàn”, đó là vào năm Kiến An thứ 24 (năm 219), là vụ thanh trừng lớn, cuối cùng khi Tào Tháo còn sống, người ra tay là Tào Phi, nhưng người xuống lệnh vẫn là Tào Tháo. Vụ án này không phức tạp. Nghe nói Nguỵ Phúng là người đất Bái, “có tài lôi kéo quần chúng, khuynh động Nghiệp Đô, chùng là người giỏi đường “khua môi múa mép, nói lời mê hoặc”. Chung Do tướng quốc nước Nguỵ của Tào Tháo, thấy hắn có tiếng, nên để hắn làm Tây Tào duyện. Nhưng Nguỵ Phúng lại nhân lúc Tào Tháo đang quyết sống mái với Quan Vũ ngoài chiến trường, đã “lập bè kết đảng” cùng với Trường Lạc vệ uý Trần Y, lập mưu tập kích Nghiệp Đô, đánh thẳng vào sào huyệt của Tào Tháo. Nhưng lúc sự việc đã gần kề, Trần Y đâm sợ, liền đến tự thú, cáo mật với Tào Phi. Đối với việc bài trừ kẻ khác ý, Tào Tháo không hề chùn tay, nhất là lúc này tiền phương đang gấp gáp, không thể để hậu phương có lửa. Lúc này trong tay Tào Phi đang có lệnh tiễn của cha mình, liền nhân cơ hội chém giết để răn đe, giết Nguỵ Phúng, giết những người liên can đến vụ án, bao gồm cả Trương Tuyền.
Lúc này cũng chẳng thể xét rõ vì sao Trương Tuyền lại bị cuốn vào án đó. Có thể vì Tào Phi đã giết chết cha mình, Trương Tuyền vì ôm hận và khiếp sợ, đã trở thành đồng đảng của Nguỵ Phúng. Khả năng thứ hai có thể là, Tào Phi bị nghi gián tiếp mưu sát Trương Tú, nên sợ bị Trương Tuyền báo thù, nên đã buộc người ta phải làm phản để giết người diệt khẩu? Khả năng thứ ba, Tào Phi không bức tử Trương Tú, nhưng cũng hiểu, Tào Tháo lôi kéo Trương Tú hoàn toàn là do nhu cầu chính trị, không bao giờ quên mối thù giết con. Việc báo thù không còn rơi vào người Trương Tú, vậy Trương Tuyền phải là người chịu tội thay. Ngươi giết con ta, ta giết con ngươi có gì là không công bằng? Tào Phi đoán ra tâm tư đó của Tào Tháo, liền nhân cơ giải quyết nguyện vọng của phụ vương, địa vị thái tử của mình càng thêm vững chác. Đương nhiên, vẫn còn một khả năng khác, tức là Tào Tháo trực tiếp ra lệnh giết chết Trương Tuyền. Tóm lại, Trương Tuyền chết rất có khả năng là oan, hoặc bị ép phải lên Lương Sơn. Sự thực thì có rất nhiều người liên can đến án của Nguỵ Phúng (Sách “Thế ngữ” nói mấy chục người, còn “Thông giám” nói mấy ngàn người), người chết oan không phải là ít, trong số đó có thể có những người Tào Tháo đã sớm muốn báo thù nhưng chưa có dịp, như số người đã ngầm câu kết với Viên Thiệu trong trận chiến Quan Độ.
Thực tế thì Tào Tháo vừa yêu tài vừa ghét tài, biết dung người và cũng biết chỉnh người. Tào Tháo chỉnh người cũng giống như dùng người, là “một tác phẩm lớn”. Không có người nào mà Tào Tháo không dám giết và cũng không có người nào Tào Tháo không giết được. Năm còn ở Duyện Châu, Tào Tháo đã giết Biên Nhượng - một người rất nổi tiếng. Biên Nhượng người Trần Lưu, học rộng giỏi hùng biện, từng sáng tác truyện “Chương Hoa đài phú” được truyền tụng một thời. Đại tướng quân Hà Tiến, từng có lời mời riêng tới Biên Nhượng. Sái Ưng, Khổng Dung, Vương Lãng và các danh sĩ khác, thảy đều tôn sùng. Bản thân Biên Nhượng từng là thái thú Cửu Giang, về sau từ quan ở nhà. Biên Nhượng là danh sĩ, đương nhiên là xem thường Tào Tháo - đứa trẻ được hoạn quan nuôi dưỡng, có thể sẽ nói ra những lời nhục mạ bất kính và cho rằng Tào Tháo sẽ chẳng dám làm gì với một đại danh nhân như mình. Ai ngờ, khi đó Tào Tháo còn chưa là tể tướng, bụng dạ còn chưa vững vàng, đã cho giết Biên Nhượng hơn nữa còn giết cả nhà Biên Nhượng. Bái tướng Viên Trung, người huyện Bái là Hoàn Thiệu cũng đều xem thường Tào Tháo, sau khi Biên Nhượng bị giết, hai người chạy đến Giao Châu, người nhà họ rơi vào miệng hổ. Về sau Hoàn Thiệu tự thú, quỳ trước Tào Tháo và cầu xin tha tội, Tào Tháo đã hằn học nói: Quỳ thì có thể miễn tội chết sao? Đương nhiên không thể, kết quả Hoàn Thiệu cũng bị lôi ra chém đầu.
Việc làm của Tào Tháo đã có ảnh hưởng rất xấu, đã gây nên một cuộc phản loạn, sau đó người đời còn bàn luận mãi. Có được bài học đó, lại thêm quan càng to, dã tâm càng lớn, dần dà học được cách “phi ngựa trên trán tướng quân, chống thuyền trong bụng tể tướng”, mỗi khi báo thù, không nên quá cứng rắn, dứt khoát như vậy. Nhưng báo thù vẫn cần phải báo thù, ghen tỵ vẫn cần phải ghen tỵ. Dù là bạn thân cũng không ngoại lệ. Bạn cũ là Hứa Du, Lâu Khuê, đều vì tài trí hơn người mà “ỷ cũ xem thường” (nghĩ mình là bạn cũ nên không tôn trọng Tào Tháo) mà bị giết. Lâu Khuê tự Tử Bá, trẻ có chí lớn, trí dũng song toàn, theo chân Tào Tháo lập nhiều chiến công, Tào Tháo thường thở dài tự nói mình không bằng (kế của Tử Bá, cô không theo kịp), cuối cùng vì ghen tài mà giết Lâu Khuê.
So với Lâu Khuê thì Hứa Du là tự tìm đến cái chết. Hứa Du vừa cậy quan vừa cậy công, nên thường không tôn trọng, không nể nang Tào Tháo, thường cợt nhả với Tào Tháo trước mặt mọi người, thậm chí còn réo cả tên cúng cơm của Tào Tháo: “A Man à, không có mình, chắc cậu sẽ chẳng có Ký Châu”. Bề ngoài thì Tào Tháo vẫn cười, nói: “Đúng, đúng đấy, cậu nói rất đúng”, nhưng trong lòng lại phẫn nộ đến tột cùng. Sau này, Tào Tháo chiếm được Nghiệp Thành, Hứa Du lại chỉ vào cổng thành nói với người đi bên cạnh Tào Tháo: “Anh chàng này nếu không có ta thì không vào được cổng này!”. Tào Tháo không thể nhịn được nữa. Năm đó ở Quan Độ, Tào Tháo đang cơn nguy cấp, thấy không cần phải nhẫn nhịn trước thái độ buông thả của Hứa Du. Thế là Tào Tháo cương quyết đòi mạng của Hứa Du.
Thực tế thì, Hứa Du đầu óc thông minh cũng bằng không. Lẽ nào lại không hiểu “bạn với vua là bạn với hổ” và ông ba mươi lại rất thích ăn thịt người? Mọi người đều hiểu, không thể sờ vào mông hổ. Nhưng Hứa Du không chỉ cứ sờ mà càng sờ càng nghiện. Vậy sao có thể giữ được cái đầu?
Chú thích


(1) Năm 199, lần nữa Tào Tháo nam chinh đánh Trương Tú, ra quân bất lợi, bị vây ở Nhương thành (huyện Đặng, Hà Nam ngày nay). Tháo lại nói với quân sư Tuân Du, không nghe lời tiên sinh nên mới thế này.
(2) Giả Hủ nói với sứ giả của Viên Thiệu, phiền túc hạ về nói lại với Viên Bản Sơ, anh em họ còn chưa thể hoà hợp thì liệu có hoà hợp với quốc sĩ trong thiên hạ không? Giả Hủ đã không khách khí mà tống cổ sứ giả của Viên Thiệu đi như vậy! (Tác giả).
(3) “Tặng than trong tuyết”: Thành ngữ, ý nói sự giúp đỡ trong lúc người ta cần thiết nhất (BTV).
(4) Tào Tháo từng cảm kích nói với Giả Hủ: “Chính ngài làm cho thiên hạ nể trọng ta!”.
(5) Đây là câu nói của Quách Gia - mưu sĩ của Tào Tháo.
(6) Ở đây Tào Tháo lợi dụng tính đa nghĩa của từ vựng tiếng Hán để nêu rõ những hiểu biết khác về chính trị với Viên Thiệu, Viên Thiệu hỏi phương diện nào có thể làm băng cứ, ở phương diện có thế hiểu là vị trí địa lý, cũng có thể hiểu là điền kiện chính trị; cứ, tức là cứ điểm, cũng có thể là hiểu là bằng cứ. Như vậy, lời Tào Tháo có thể hiểu là: Chỉ cần dựa vào chính nghĩa và nhân tài, nơi nào cũng có thể trớ thành căn cứ địa. (Tác giả)

(7) Theo lễ nghi thời cổ, đi chân không ra đó là sự kính trọng đặc biệt đối với đối phương, không hẳn là “vì vội vàng ra đón nên chưa kịp đi giày” (Tác giả).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptySat Aug 16, 2014 12:48 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
TÀO THÁO
- 4 -
Mấy bản án mưu sát
Phàm những ai chống đối hoặc đắc tội với Tào Tháo thì hầu như kết cục đều không hay. Nếu không tìm được sai sót thì vu là mưu phản, tội mưu phản không xong thì vu là “có bụng phỉ báng”. Bụng phỉ báng là mơ hồ, là không cần chứng cứ nên bắt ai cũng được. Buộc tội “có bụng phỉ báng” để giết người, Lưu Bang đã làm, Hán Vũ đế Lưu Triệt cũng đã làm, đến Tào Tháo càng dễ dàng hơn. Thôi Diễm, một người đạo đức cao thượng nhất, phẩm hạnh đoan chính nhất, tác phong chính phái nhất, được dân chúng cũng ngưỡng mộ nhất, đã bị Tào Tháo giết bằng cách đó.
Thôi Diễm tự Quý Khuê, là danh sĩ đức cao vọng trọng nhất thời đó. Sử sách coi là “thanh trung cao lượng, nhã thức kinh viễn, suy phương trực đạo, chính sắc vu triều”, tức là thanh liêm trung trinh, chính phái nho nhã, vừa cao phong lượng tiết vừa nhìn xa biết rộng, dáng vẻ đường hoàng, ung dung lên triều, nghe nói, vừa nhìn thấy Tào Tháo đã thấy phục và sợ (Thái tổ vừa kính vừa ngại). Thực tế thì Tào Tháo cũng rất tôn sùng Thôi Diễm, nói Thôi Diễm có “Bá Di chi phong”, “Sử Ngư chi trực”(1), “bần phu mộ danh nhi thanh, tráng sĩ thượng xưng nhi lịch”, cho rằng Thôi Diễm là tấm gương của quần chúng, mẫu mực của thời đại.
Thôi Diễm cũng không phụ kỳ vọng của mọi người. Trong thời gian đảm nhiệm chức vị “bộ trương tổ chức” và “bộ trưởng nhân sự”, Thôi Diễm đã đề bạt một loạt nhân tài ưu tú, tuỳ tài mà dùng, không dựa vào tình cảm, khiến cho “triều đình mạnh mẽ thiên hạ thái bình”, tuyệt không dùng kẻ hư bại, tạo dựng một triều đình đầy triển vọng.
Thôi Diễm lỗi lạc quang minh, lòng dạ ngay thẳng. Vào những năm cuối đời, Tào Tháo thường phải lo nghĩ về chuyện lập tự. Không biết nên lập Tào Phi là con trưởng hay lập Tào Thực là đứa có tài nhất, liền có thư hỏi riêng trăm quan, mong mọi người cho biết ý kiến, thư trả lời phải được dán kín. Riêng Thôi Diễm không dán thư, trả lời công khai, nói theo nghĩa của sách “Xuân Thu” lập tự phải lập trưởng, hơn nữa Ngũ quan Trung lang tướng (Tào Phi) còn là người nhân hiếu thông minh, thuộc dòng chính thống. Thôi Diễm tôi, nguyện lấy cái chết để giữ chính đạo. Tào Tháo xem xong lấy làm kinh ngạc. Bởi Tào Thực là cháu rể của Thôi Diễm. Thôi Diễm không tiến cử Tào Thực lại tiến cử Tào Phi, là hết sức công tâm, ngay như Tào Tháo cũng phải “thở ngắn than dài”, kính phục Thôi Diễm chí công vô tư.
Nhưng một người như vậy cũng bị Tào Tháo giết chết và hoàn toàn do vu khống. Lý do giết người là “có bụng phỉ báng”.
Lấy cớ bụng phỉ báng làm lý do giết người căn bản là chăng có nguyên do. Sự việc là thế này: Sau khi Tào Tháo làm Nguỵ vương, có người tên là Dương Huấn dâng biểu ca tụng công huân, thịnh đức của Tào Tháo, một số người nói Dương Huấn là phi nghĩa, dối trá, xun xoe trước quyền thế. Thêm nữa, họ nói tới Thôi Diễm, nói Thôi Diễm là “bộ trưởng tổ chức” chưa nghiêm túc sâu sát khi tiến cử Dương Huấn làm quan. Thôi Diễm liền đọc bản tấu chương của Dương Huấn và viết cho Dương Huấn một bức thư ngắn, nói: “Tình biểu, sự giai nhĩ! Thời hồ thời hồ, hội đương hữu biên thời. Từ đây mà có bản án.
Bây giờ chúng ta cũng chẳng có cách gì để biết rõ động cơ và những suy nghĩ chân thực Thôi Diễm đã viết trong thư, nhưng rõ ràng bức thư đó có phần hàm hồ, từ ngữ lờ mờ hiểu sao cũng được, tạm dịch thế này: “Ta đã xem biểu chương, sự tình có thể coi là được! Thời gian ôi thời gian, sẽ biến đổi theo thời gian, nhất định tình huống sẽ biến đổi!”. Điều mấu chốt ở đây là: Việc có thể coi là được kia là việc gì và tình huống sẽ biến đổi kia là tình huống nào. Nhưng cũng có thể hiểu là: Lời lẽ trong biểu chương của Dương Huấn có thể coi là được hoặc việc Dương Huấn dâng biểu chương có thể coi là được, và tuỳ theo thời gian dịch chuyển, cách nhìn của mọi người về Dương Huấn cũng sẽ có biến đổi. Hiểu như vậy là hiểu qua sự việc, thuận lý thành lời.
Nhưng người mật báo kia lại giải nghĩa khác. Hắn dịch ra như thế này: Ta đã xem biểu chương, những việc người họ Tào kia làm có thể coi là được! Thời gian trôi qua, rồi sẽ có biến. Vì vậy Tào Tháo tức giận nói: Trăm họ sinh con gái thường nói “sinh con gái thôi”, “tạm gọi là được”. Nhưng “thôi” là từ không hay. “Rồi sẽ có biến”, nói như vậy là thiếu khiêm tốn, có dụng ý khác! Thôi Diễm liền bị xử cạo trọc đầu, làm lao dịch. Thôi Diễm bị sỉ nhục, nhưng vẫn thản nhiên, hành vi sắc thái như thường, không hờn giận sợ sệt, không uốn gối van xin. Kẻ mật báo nọ lại đến nói với Tào Tháo, Thôi Diễm không hề nhận tội, hơi cái. Tào Tháo liền hạ lệnh: Thôi Diễm tuy nhận hình phạt, nhưng vẫn kết giao với tân khách, nhà cửa đông đúc như ngoài chợ, vẫn vuốt râu khi nói năng, vẫn trừng mắt nhìn người, bụng dạ như có điều bất mãn! Ba hôm sau, viên quan phụ trách giám sát lại đến báo, Thôi Diễm vẫn chưa tự sát. Tào Tháo tức giận nói: Chẳng nhẽ Thôi Diễm nhất định để bản vương, phải động dao động búa hay sao? Thôi Diễm nghe nói vậy liền gật đầu, đó là sai lầm của tôi, không biết Tào công lại có ý đó. Thế rồi thanh thản tự tận.
Thôi Diễm chết, rõ ràng đó là án oan lớn nhất. Ngay như Trần Thọ lúc viết sử, đã phải nói: “Thái tổ (Tào Tháo) hay nghi kỵ, những kẻ không chịu như Khổng Dung nước Lỗ, Hứa Du, Lâu Khuê ở Nam Dung, bị giết vì cậy quen mà không tôn trọng, còn Thôi Diễm, đến nay người đời vẫn còn thương tiếc, đến nay vẫn là oan uổng”. Thực tình, Thôi Diễm không hề “không tôn trọng”, mà chính Tào Tháo đã có cớ để giết. Năm 204, Tào Tháo công phá Nghiệp thành, bình định Viên thị, lĩnh Ký Châu mục. Thôi Diễm vừa được cứu từ ngục Ký Châu ra, theo hầu biệt giá của Tào Tháo, Tháo dương dương tự đắc nói với Thôi Diễm, hôm qua ta vừa xét lại hộ khẩu, thấy được thêm ba mươi vạn người, Ký Châu quả là một châu lớn! Nào ngờ Thôi Diễm lại nói, nay thiên hạ lỵ tán, chín châu tan rã, anh em họ Viên gây can qua, người dân Kỷ Châu xác chết đầy đường. Nay vương sư tới đây, chưa nghe nói tới dân khỏi cảnh lầm than, đã nói tới được bao nhiêu binh giáp, mở rộng thực lực, chẳng nhẽ đó là điều già trẻ gái trai trong châu kỳ vọng ở minh công sao? Lời nói nghiêm nghị đúng mực đó làm cho tân khách ở bên sợ hãi bạc mặt, Tào Tháo vội vã xin lỗi Thôi Diễm và sự tự đắc kia cũng biến mất. Đây là lời nói đúng, nói thẳng khiến mọi người kính nể. Nhưng u nhọt cũng kết từ đó. Cần phải nói thêm, kết oán từ năm 204, đến năm 216 mới giết người, Tào Tháo chờ đợi mười hai năm, một cuộc chờ đợi khá lâu.
Đừng quên rằng trong thời đại chuyên chế, những kẻ nắm quyền lực luôn muốn đả kích báo thù, công báo tư thù, đương nhiên Tào Tháo không phải ngoại lệ. Bởi vì ngay cả những hoàng đế, các quan viên bất tài vô năng nhất cũng luôn dùng thủ đoạn đó. Cái khác nhau chỉ là: Có người thì trở mặt luôn, lập tức trả thù; có người vì mục tiêu xa hơn, lợi ích lớn hơn mà nhẫn nhịn, rồi tính sổ sau.
Kẻ trở mặt ngay là kẻ thô lỗ, loài chó ngựa; người tính sổ sau là anh hùng hoặc gian hùng.
Thôi Diễm lấy cái chết để chứng minh mình là quân tử, Tào Tháo lấy cái chết của Thôi Diễm để chứng minh mình là gian hùng.
Cái chết của Khổng Dung thì lại khác.
Khổng Dung tự Văn Cử, nghe nói là cháu đời thứ hai mươi của Khổng Phu Tử. Khổng Dung thông minh từ bé, được coi là “thần đồng”. Năm mười sáu tuổi cùng với anh là Khổng Bao tranh giành chịu chết vì tội bao che Trương Kiệm bị bọn hoạn quan hãm hại, Khổng Dung được coi là “nghĩa sĩ”. Thế là Khổng Dung nổi tiếng khắp thiên hạ, người người đều biết, cùng với Biên Nhượng, đã nói ở phần trước, là “quan viên lớp sau”. Năm ba mươi tám tuổi là Bắc Hải tướng. Sau này được Tào Tháo mời về Hứa Xương làm tướng tác đại thần (bộ trưởng kiến thiết) chủ quản các công trình. Mỗi khi triều đình có hội nghị ở ngự tiền, Khổng Dung luôn là người phát ngôn, cầm trịch các khanh đại phu khác chỉ là uỷ viên.
Khổng Dung tài cao tiếng lớn, tính khí và điệu bộ, đương nhiên cũng không nhỏ. Năm 197, Viên Thuật xưng đế, Tào Tháo muốn lấy việc công báo thù riêng, nhân đó muốn giết chết thái uý Dương Bưu người có quan hệ hôn nhân với Viên Thuật. Sau khi biết tin, Khổng Dung tìm đến Tào Tháo, nói: “Chu thư” viết: “Cha con anh em, tội không liên can”, huống chi Dương Bưu chỉ là họ hàng của Viên Thuật. Tào Tháo nói thẳng luôn: Đây là ý của hoàng thượng. Khổng Dung thầm nghĩ, phải vạch mặt ngươi! Mới hỏi lại: Chẳng nhẽ Thành vương muốn giết Thiệu công, Chu công cũng nói là không biết? Nay thiên hạ kính nể ngài, vì ngài thông minh, nhân trí, làm việc công minh. Nếu lại lạm dụng giết người vô cớ thì e người trong thiên hạ đều phải lo lắng. Đầu tiên, Khổng Dung này đường đường là nam tử hán nước Lỗ, ngày mai sẽ không lên triều! Tào Tháo thấy nói cũng có lý nên không giết Dương Bưu, nhưng từ đó trong lòng đã kết oán.
Về phần mình, Khổng Dung quyết không để Tào Tháo yên, mỗi khi có dịp, liền bới móc lỗi, châm biếm và cố ý làm loạn để xổ hết những điều bất mãn với Tào Tháo. Tào Tháo công phá Nghiệp thành. Tào Phi cướp Châu thị - vợ Viên Hy, về làm thiếp.
Khổng Dung liền có thư gửi Tào Tháo, nói năm đó Vũ vương đánh Trụ đem Đát Kỷ thưởng cho Chu công. Tào Tháo biết Khổng Dung học rộng, nên cho chuyện đó là thật, liền hỏi đã đọc ở sách nào. Khổng Dung nói: “Ngày nay chuyện xảy ra ngay trước mắt”. Lại như, Tào Tháo muốn tiết kiệm lương thực, liền hạ lệnh cấm rượu. Khổng Dung liền lên tiếng phản đối, rằng trên trời có tửu tinh, dưới đất có tửu tuyền, nhân gian có tửu đức, vậy sao lại cấm rượu? Hơn nửa, từ xưa thường vì đàn bà mà mất nước, vậy sao không cấm đàn bà? Tào Tháo rất bất bình, nhưng Khổng Dung vai to, tiếng lớn, Tào Tháo đành cho qua, “bề ngoài khoan dung, bề trong thì bất bình”.
Nếu Khổng Dung chỉ nói mấy lời châm biếm, khắc nghiệt đó thì có thể Tào Tháo đã nhẫn nhịn cho qua. Tiếc rằng Khổng Dung còn muốn công kích cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị của Tào Tháo. Mỗi khi Tào Tháo đưa ra một quyết sách lớn, Khổng Dung đều phản đối, làm sao Tào Tháo có thể nhẫn nhịn được? Thêm nữa, quan hệ giữa Khổng Dung và Lưu Bị là không bình thường, vừa lúc Tào Tháo muốn dùng binh Kinh Châu. Nếu để một người như vậy ở trong triều thì yên tâm sao được? Vì vậy Tào Tháo quyết định phải tiêu diệt Khổng Dung trước khi tiêu diệt Lưu Bị.
Nhưng Khổng Dung không phải loại sâu bọ vô danh, muốn giết hắn phải theo trình tự từng bước một. Vì vậy Tào Tháo liền bổ nhiệm Si Lự làm kiểm sát trưởng (ngự sử đại phu), xét xem Khổng Dung có vấn đề gì không. Si Lự vốn đã bất hoà với Khổng Dung, được tin dùng nên đã hiểu ngay ý của Tào Tháo. Si Lự thu thập nhanh tội chứng của Khổng Dung và cho một người là Lộ Tuý báo tài liệu lên. Điều quan trọng nhất trong đó là câu nói bốc “Người có thiên hạ, cứ gì là phải là mão kim đao”, mão kim đao là chữ lưu. Đó là lời mưu phản đương nhiên kẻ đáng giết phải giết. Thế là Khổng Dung bị nhốt ngay vào ngục, bị xử chết, bêu thây ngoài chợ, vợ con đều bị giết sạch.
Có điều Tào Tháo giết Khổng Dung không vì tội danh “mưu phản” mà vì tội danh “bất hiếu”. Theo phát hiện của Lộ Tuý và tội trạng công bố sau này. Khổng Dung có hai “lý luận phản động”.
1. Cha và con có ân tình gì? Bàn về ý nghĩa thì đó chỉ do tình dục phát túc mà thôi. Mẹ và con có gì là tình thương yêu? Chỉ như vật dụng để trong vại sành, sau khi lấy ra thì hết quan hệ.
2. Gặp lúc mất mùa, có chút gì ăn, nếu cha không tốt thì nên cho người khác. Nói như vậy rõ ràng là bất hiếu! Cho nên trong lúc ban bố tội trạng, Tào Tháo tỏ vẻ hằn học: “Làm trái lẽ trời, bại hoại luân lý, tuy giết thị triều, nhưng hận là muộn”, không những đáng giết mà còn giết quá muộn.
Đây là sự trị tội điển hình vì lời nói và cũng là nền chuyên chế chính trị điển hình. Trước hết, chúng ta không rõ có đúng là Khổng Dung đã nói như vậy không. Nhưng Tháo nói có là có, không được bàn thêm. Nhưng dù là có thì nhiều lắm cũng chỉ là nói bậy nói bạ, có sai nhưng không có tội. Nhưng đó là thời đại Tào Tháo. Không nghĩ tới nhân quyền, ngay như “có bụng phỉ báng cũng là có tội, huống chi đây lại là lời công kích điên cuồng”? Đương nhiên là đáng chết.
3. Tào Tháo từng nói: “có tài thì dùng”, cướp chị dâu nhận vàng, bất nhân bất hiếu có hề chi, vậy sao chỉ vì bất hiếu mà giết người? Lẽ nào nói mà không làm, tự mình vả vào mặt mình? Hơn nữa, đây chỉ là mấy lời bất hiếu của Khổng Dung, Tào Tháo lại quy kết thành đường lối tổ chức, chính sách nhân sự, đây mới càng nên giết? Có điều chúng ta lại không thể hỏi Tào Tháo mấy lời đó. Đúng như Lỗ Tấn đã nói: “Nếu chúng ta đến hỏi Tào Tháo thì e rằng Tào Tháo sẽ giết nốt chúng ta”(2).
Tào Tháo giết Khổng Dung với tội danh bất hiếu là có dụng ý sâu xa. Lần nữa chứng tỏ Tào Tháo là chính trị gia đầy mưu kế, còn Khổng Dung làm việc như con mọt sách. Trước hết, Hán triều luôn chủ trương trị thiên hạ bằng đạo hiếu. Tào Tháo giết Khổng Dung chứng tỏ mình luôn ủng hộ đạo hiếu, mà ủng hộ đạo hiếu cũng tức là ủng hộ Hán thất. Việc làm quang minh chính đại, đồng thời còn rửa sạch được mối nghi ngờ Tào Tháo “cướp quyền”, về mặt chính trị Tào Tháo được thêm một phiếu. Thêm nữa, làm như thế không chỉ tiêu diệt xong thể xác Khổng Dung, còn có thể hạ thấp danh dự Khổng Dung. Nghĩ xem, là cháu đời thứ hai mươi của Khổng Tử lại chủ trương bất hiếu thì nhân phẩm còn giữ được không? Một người phản bội lại tổ tiên lẽ nào lại không đáng giết? Hiển nhiên, Tào Tháo không chỉ muốn giết Khổng Dung, mà còn muốn Khổng Dung mang tiếng xấu muôn đời. Chiêu này thực độc ác và lợi hại, vì vậy, Trần Thọ khi viết “Tam quốc chí” đã không dám đưa chuyện Khổng Dung vào.
Nói thêm, khi giết Khổng Dung, Tào Tháo còn có mục đích là chỉnh sửa phong khí. Có điều phong khí chẳng có quan hệ gì với hiếu hay bất hiếu, nhưng lại quan hệ lớn đến chính trị. Chúng ta đều biết, những năm cuối thời Đông Hán, nhiều danh sĩ gắng giữ mình trong sạch, nhưng cũng không ít kẻ lại uốn gối cầu vinh. Nhưng bất kể là loại “thanh cao” nào đều có chung một đặc điểm: Tài khí lớn, tính khí cũng lớn; hoặc không có tài khí nhưng tính khí rất lớn. Họ tự cho mình là thanh cao, không chịu đi lại với lũ tục nhân, cũng không chịu hợp tác với người cầm quyền, hoặc vờ không biết có sự hợp tác đó. Nếu chỉ là cá nhân giở trò thì không có gì đáng ngại, đằng này họ lại muốn đưa tác phong, tính khí đó vào lĩnh vực chính trị, tạo nên ảnh hưởng lớn, khiến Tào Tháo nhiều lần phải đau đầu. Tào Tháo là người phi thường luôn làm những việc phi thường trong thời khắc đặc biệt, Tháo muốn chuyên chính, lẽ nào lại chịu để người khác ngày ngày chửi rủa mình? Tháo muốn dùng người, sẽ không tha cho những ai không hợp tác. Cần phải giết để nhắc nhở mọi người, đó là chỉnh sửa phong khí, Khổng Dung chỉ là một con gà trống trong số đó. Vì vậy Tào Tháo muốn giết Khổng Dung, muốn phê phán Khổng Dung. Còn với người có tài khí và tính khí cũng rất lớn, địa vị và ảnh hưởng không bằng Khổng Dung thì không động tới, giao cho người khác giết.
Người đó là Nễ Hành.
Nễ Hành tự Chính Bình, người Bình Nguyên (huyện Bình Nguyên, Sơn Đông ngày nay). “Hậu Hán thư” nói: “Nễ Hành từ nhỏ đã có tài hùng biện, tính khí cao ngạo, không coi ai ra gì”, cũng tức là làm việc tuỳ hứng, cao ngạo cương trực, luôn thích phản đối, không hợp với người khác và cũng chẳng coi ai ra gì. Có thể vì tính nết tương đồng, nên Nễ Hành có quan hệ tốt với Khổng Dung, hai người thường nói đủ mọi chuyện. Nghe đâu Khổng Dung từng nói hai điều bất hiếu đó với Nễ Hành và Nễ Hành đã tuyên truyền ra ngoài. Lộ Tuý còn phát hiện thấy hai người thường tâng bốc lẫn nhau. Nễ Hành nói Khổng Dung là: “Trọng Ni bất tử” còn Khổng Dung tâng bốc Nễ Hành là “Nhan Hồi tái sinh”. Trong tài liệu trình báo lên, Lộ Tuý nhắc đến Nễ Hành nhiều lần, đủ thấy về một ý nghĩa nào đó, án của Khổng Dung là tiếp nối án của Nễ Hành.
Trước hết, Nễ Hành bị giết vì đắc tội với Tào Tháo. Khổng Dung mê tài của Nễ Hành, nên nhiều lần tiến cử Nễ Hành với Tào Tháo. Bản thân họ Tào cũng rất mến người tài, cũng rất muốn xem mặt vị nhân sĩ này. Nhưng Nễ Hành lại xem thường Tào Tháo, nên nói mình có bệnh điên, không muốn đến, còn ngấm ngầm nói lời đại nghịch, châm chọc Tào Tháo. Làm sao Tào Tháo có thể chịu nổi? Nhưng nghĩ đến tài khí, tiếng tăm của Nễ Hành, Tào Tháo không nỡ giết, chỉ muốn đánh gục uy phong của Nễ Hành. Lại nghe Nễ Hành giỏi đánh trống, liền cho triệu Nễ Hành làm quan trống, đặt tiệc lớn thết khách, nghe thử âm trống. Lần này Nễ Hành đến và tiếng trống mới âm vang tinh tế làm sao, “thần thái khác thường, âm tiết bi tráng, người nghe thảy đều cảm kích”. Nễ Hành lại đi đến trước mặt Tào Tháo, nhưng quan phụ trách lễ nghi đã ngăn lại, phải thay y phục chuyên dùng của quan trống đã, sao nghĩ có thể ăn mặc như thế này? Nễ Hành nói: Được. Rồi từ từ cởi bỏ từng cái một, người trần như nhộng ngay trước mặt Tào Tháo, lại từ từ thay mặc chế phục, không hề cảm thấy xấu hổ, còn chơi trống lần nữa mới đi. Lúc này, Tào Tháo không biết nên trốn đi đâu. Có điều, Tào Tháo vẫn là Tào Tháo, Tháo cười khà khà nói với quan khách: “Ta định bụng làm nhục Nễ Hành, chẳng ngờ mới là người bị nhục”.
Khổng Dung cũng hết sức bất bình về chuyện này, đã trách cứ Nễ Hành một hồi, đồng thời nhiều lần ca ngợi Tào Tháo là người trọng tài. Nễ Hành bằng lòng gặp Tào Tháo. Khổng Dung mừng rỡ vô cùng, chạy đến báo tin cho Tào Tháo, Tào Tháo cũng rất mừng, căn dặn gia nhân hễ Nễ Hành đến phải báo ngay. Nào ngờ cứ thế chờ cho đến chiều Nễ Hành mới tới, và không phải tới để xin lỗi mà tới để mắng mỏ. Lúc đó, Lễ Hành mặc áo vải thường, đầu quấn khăn thô, tay cầm gậy gỗ, ngồi ngay trước cửa đại doanh, mở miệng chửi bới. Vừa chửi lại vừa đập gậy xuống đất, chửi bới có ngọn có ngành, ra âm ra sắc. Quả nhiên Tào Tháo nổi giận, quay lại nói với Khổng Dung, thằng nhãi Nễ Hành là cái quái gì thế? Ta muốn giết hắn, bất quá chỉ như giết chuột mà thôi!
Nễ Hành đúng là kẻ không biết điều. Ít ra cũng không nên bán rẻ Khổng Dung, Tào Tháo cũng xem thường. Có thể vì quá khinh bỉ, Tào Tháo đã không thèm giết, mà đẩy Nễ Hành sang chỗ Lưu Biểu. Lưu Biểu có tiếng khoan dung và yêu quý kẻ sĩ, sau khi đến đó, Nễ Hành như được thay cung đổi dây, hoà thuận cùng nhau, có thể đó là biện pháp hay. Nhưng tiếc thay, giang sơn khó đổi, bản tính khó dời, cuối cùng thì Nễ Hành lại ầm ĩ với Lưu Biểu. Lưu Biểu đành phải đẩy Nễ Hành sang chỗ Hoàng Tổ. Hoàng Tổ là người thô lỗ, chịu sao được cung cách của Nễ Hành? Trong một buổi yến tiệc, Nễ Hành lại nói lời khiếm nhã. Hoàng Tổ liền trách cứ, Nễ Hành đã mắng chửi đối đáp. Hoàng Tổ quá giận, sai người lôi ra đánh. Lúc này Nễ Hành càng lồng lộn, mắng chửi. Hoàng Tổ hết chịu nổi, hạ lệnh giết Nễ Hành. Chủ bạ của Hoàng Tổ cũng căm giận Nễ Hành, đã cho giết luôn. Lúc này Nễ Hành mới hai mươi sáu tuổi.
Nễ Hành chết, một phần là do mình tự chuốc lấy. Nễ Hành cũng quá đáng. Trong số những văn sĩ chết oan, Nễ Hành là người ích kỷ cực đoan. Tự cao tự đại là biểu hiện của ích kỷ. Nễ Hành chỉ thấy có mình, không thấy có người khác. Nễ Hành xem thường tất cả mọi người. Để biểu hiện cái gọi là ngạo khí của mình, Nễ Hành chẳng ngại gì, đã đẩy người bạn là Khổng Dung đến chỗ rất khó xử? Không thể coi đó là anh hùng, chỉ có thể coi là cặn bã.
Sự thực thì, cái gọi là ngạo cốt của Nễ Hành không hề là chính nghĩa, chỉ là biểu hiện của một thứ ác tính đến mức muốn hạ thấp người khác, đề cao mình. Lúc đó kinh đô Hứa Xương vừa xây dựng xong, hào kiệt các nơi đổ về, nhân tài chật ních, có người đề nghị Nễ Hành nên qua lại với Trần Quần, Tư Mã Lang. Nễ Hành vênh mặt lên, nói: “Ta có thể kết giao với loại giết lợn bán rượu chăng? Trần Quần tự Trường Văn, ông nội, cha và chú đều là danh sĩ đương thời, bản thân cũng là bạn của Khổng Dung, cũng là quan trọng triều, không là người giết lợn. Tư Mã Lang tự Bá Đạt, con em thế gia, là anh cả của Tư Mã Ý, đương nhiên, cũng không phải là kẻ bán rượu”. Một người hỏi Nễ Hành: “Thế Tuân Úc và Triệu Trĩ Trường thì sao? Tuân Úc là một nhân tài, là mưu sĩ hàng đầu của Tào Tháo; Triệu Trĩ Trường là tướng quân dẹp giặc thời đó, ăn rất khoẻ”. Thế là Nễ Hành bĩu môi nói luôn, với bộ mặt của họ Tuân đó chỉ đáng được làm quan coi sóc tang lễ và với cái bụng ấy họ Triệu kia có thể làm gián bếp mời khách. Tóm lại, Nễ Hành xem thường tất cả, có thể vừa mắt một chút chỉ có Khổng Dung và Dương Tu. Nễ Hành cũng chẳng nể nang gì, thường nói với người khác, chỉ có thằng lớn Khổng Văn Cử (Khổng Dung) và thằng tiểu tử Dương Đức Tổ (Dương Tu) còn hợp được, những thằng bé khác chẳng có gì đáng nói. Nễ Hành nói những câu đó lúc mới hơn hai mươi tuổi, Khổng Dung đã bốn mươi tuổi bị gọi là thằng lớn. Rõ ràng Nễ Hành điên khùng đến chừng nào!
Một người vô lễ điên khùng như vậy thì không thể có quan hệ tốt với mọi người, nhưng gần như Nễ Hành cũng không muốn có mối quan hệ tốt đó. Lúc Nễ Hành bị Tào Tháo đuổi, mọi người ra tiễn, Nễ Hành lại làm mình làm mẩy, rất lâu mới tới. Mọi người tức giận, nên ai ngồi cứ ngồi, ai nằm cứ nằm, đều không để ý đến Nễ Hành. Nễ Hành liền ngồi phịch xuống và khóc rống lên. Mọi người hỏi vì sao khóc. Nễ Hành nói: “Người ngồi như nấm mồ, nằm như xác chết, ta bị kẹp giữa mồ mả và xác chết, không buồn sao được?”. Một người thích chửi bới, chửi bới cay độc như vậy, có ai sẽ thích thú đây?
Nễ Hành bốc đồng, hay mắng người nên đã phải chết. Lúc đến chỗ Lưu Biểu, Nễ Hành được coi là thượng khách, Nễ Hành lại luôn châm chọc sô quan viên bên cạnh Lưu Biểu. Thế là số người này liền đến to nhỏ với Lưu Biểu, nói Nễ Hành thừa nhận tướng quân nhân ái khoan hậu, nhưng đó là lòng nhân ái của đàn bà, không có năng lực quyết đoán, thể nào rồi cũng thua. Lời nói đó đánh trúng vào nhược điểm của Lưu Biểu, nhưng Nễ Hành đâu có nói thế, nhưng cứ nói đó là lời của Nễ Hành thì ai cũng tin. Thế là Lưu Biểu từ xấu hổ thành tức giận, liền đẩy Nễ Hành đến chỗ Hoàng Tổ. Tào Tháo để Nễ Hành đến chỗ Lưu Biểu, vì biết Lưu Biểu khoan hậu, thể nào cũng cho Nễ Hành một lối thoát, hy vọng Nễ Hành sẽ tốt hơn. Lưu Biểu biết Hoàng Tổ là kẻ thô lỗ, còn đẩy Nễ Hành sang đó, hẳn có ý không cho Nễ Hành sống tiếp, thậm chí là mượn dao giết người.
Rốt cuộc, Nễ Hành chết vì không có pháp chế và nhân quyền. Dù Nễ Hành có ác độc, đáng ghét tới đâu, ít nhiều cũng là có tội, nhưng không đáng chết. Nhưng có thể khẳng định nếu Nễ Hành có ở trong một xã hội đủ pháp chế và nhân quyền, cũng chẳng được mấy người yêu thích.
Xét một cách tương đối thì Dương Tu chết có phần không rõ ràng. Dương Tu tự Đức Tổ, là con của thái uý Dương Bửu, là người thông minh tuyệt đỉnh, tài hoa có thừa, ngay kẻ cuồng vọng Nễ Hành cũng thừa nhận Dương Tu là một nhân vật và thường gọi là “thằng nhỏ”. Dương Tu còn là người khiêm nhường, cung kính. Dương Tu chết không phải vì đã đắc tội với bất kỳ ai. Các sử gia đều cho rằng Dương Tu chết là do việc tranh giành ngôi thái tử giữa Tào Phi và Tào Thực, Dương Tu lại giúp Tào Thực. Sau khi Tào Tháo quyết định lập Tào Phi làm thái tử, để ngừa việc Dương Tu giúp Tào Thực tranh giành với anh, gây phiền hà, huynh đệ tương tàn, nên trước lúc lâm chung hơn trăm ngày, Tào Tháo đã giết Dương Tu.
Điều đó thực đáng ngờ. Đúng là Dương Tu có giúp Tào Thực, nhưng chưa phải là tư đảng của Tào Thực. Sau khi Tào Phi được lập làm thái tử, Dương Tu muốn rời xa Tào Thực. Nhưng Tào Thực lại lôi kéo Dương Tu, Dương Tu “không dám từ chối”. Tào Thực vẫn là con cưng của Tào Tháo, tuy không làm được thái tử, nhưng cũng không mắc tội. Dương Tu từng xuất thân danh môn, bốn đời là thái uý, nhưng lúc đó ngay như hoàng đế cũng trở thành con rối trong tay Tào Tháo thì thái uý là cái gì chứ? Nếu Dương Tu không chơi với anh em họ Tào thì có thể thế nào đây?
Huống hồ quan hệ giữa Dương Tu và Tào Phi cũng không tồi. Dương Tu từng tặng bảo kiếm cho Tào Phi, Tào Phi vô cùng thích thú luôn mang theo bên mình, về sau Tào Phi lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở Lạc Dương, vẫn mang theo thanh bảo kiếm đó. Một hôm, Tào Phi ra khỏi cung, bỗng thấy nhớ Dương Tu, liền ôm bảo kiếm, ra lệnh dừng xe, rồi quay lại nói với tả hữu: “Năm đó Dương Đức Tổ bảo đây là thanh kiếm của Vương Mao. Vương Mao bây giờ ở đâu?”. Đến khi tìm thấy Vương Mao, Tào Phi đã ban cho Vương Mao lương thực và áo quần. Tục ngữ có câu “yêu ai, yêu cả tông ti họ hàng”. Tào Phi yêu quý thanh bảo kiếm, nên yêu quý luôn cả Vương Mao, còn muốn trọng thưởng; gọi Dương Tu bằng tự, không phải bằng tên. Rõ ràng Tào Phi rất có cảm tình với Dương Tu, hoặc tối thiểu cũng không có phản cảm. Người mà Tào Phi không muốn giết, cớ gì Tào Tháo phải giết thay?
Tào Tháo vì mình nên đã giết Dương Tu.
Con người Dương Tu, tuy được mọi người thừa nhận là thông minh, nhưng thực ra chỉ là khôn vặt. Dương Tu phò tá Tào Thực, vì đoán rằng phần nhiều Tào Tháo sẽ lập Tào Thực. Vì vậy, tuy cả hai anh em đều đi lại với Dương Tu, nhưng Dương Tu vẫn nghiêng về Tào Thực. Sau khi Tào Thực thất thế, Dương Tu định bỏ, đó là biểu hiện của khôn vặt, láu lỉnh. Dương Tu từng hướng dẫn cho Tào Thực một số chiêu hay, đó đều là chơi trò khôn vặt. Một lần, Tào Tháo lệnh cho hai anh em Tào Phi,
Tào Thực ra công cán ở ngoại ô Nghiệp thành. Trước đó, Tào Tháo cho dặn những người gác, không được cho ai ra ngoài. Dương Tu đã đoán ra cách sắp đặt của Tào Tháo, nên đã nói trước với Tào Thực, ngộ nhỡ người gác cửa không cho ngài ra, ngài có thể giết hán vì đã có vương mệnh trong tay. Kết quả, Tào Thực ra ngoài, Tào Phi thì không? Nhưng với cách sắp xếp lần này, Tào Tháo muốn khảo sát tổng hợp về hai anh em, tức là khảo sát cả tài lẫn đức. Xét về bề ngoài thì Tào Thực đã thắng, nhưng để lại cho Tào Tháo ấn tượng: Tào Phi nhân hậu, Tào Thực tàn nhẫn, thực tế là thua. Dương Tu biết một mà không biết hai, tầm nhìn hạn hẹp, vì vậy mới nói là khôn vặt.
Từ chỗ khôn vặt, Dương Tu luôn là người tự bê đá đập vào chân mình. Dương Tu thích phỏng đoán những suy nghĩ của Tào Tháo, luôn giúp Tào Thực biết cách trả lời một số vấn đề và viết thành đáp án. Mỗi khi Tào Tháo có việc hỏi đến, chỉ cần chép lại những đáp án thích hợp, đã chuẩn bị sẵn, rồi gửi lên, mong Tào Tháo có được ấn tượng “tài trí nhạy bén”. Qua một, hai lần, Tào Tháo sinh nghi, Tào Thực dù có thông minh đến mấy, cũng không thể nhanh như vậy!
Cử người đi xem xét và đã tìm ra nguyên nhân. Từ đó, Tào Tháo đã nhìn Tào Thực bằng con mắt khác và càng thêm ghét Dương Tu.
Đáng tiếc, Dương Tu không tự biết mình, nên luôn luôn chơi trò khôn vặt. Là chủ bạ bên cạnh Tào Tháo, nhưng Dương Tu có bao giờ chịu chăm chỉ ngồi ở phòng làm việc, mà cứ bỏ ra ngoài chơi. Nhưng lại sợ Tào Tháo có việc cần hỏi, nên trước khi ra ngoài, đã phỏng đoán suy nghĩ của Tào Tháo, và theo thứ tự viết thành đáp án, còn dặn người hầu, nếu thừa tướng có lệnh xuống, cứ theo thứ tự đó mà trả lời. Nào ngờ người tính không bằng trời tính, một trận gió thổi qua, thứ tự đáp án đã bị đảo lộn. Thị tòng vẫn theo trước sau để trả lời, đương nhiên không khớp. Bỗng nhiên Tào Tháo tức giận, cho gọi Dương Tu đến hỏi: Dương Tu không dám giấu, đành phải nói thực. Khi nhìn Dương Tu đối phó với mình trong lòng Tào Tháo tự nhiên vô cùng căm ghét.
Tệ hơn nữa là Dương Tu muốn thể hiện tính khôn vặt của mình trước mặt mọi người. Một lần Tào Tháo đi thị sát phủ tướng quốc mới xây, xem xong không nói gì, chỉ cho người viết một chữ “Hoạt” trên cửa. Dương Tu liền cho tháo cửa ra làm lại, phân tích rằng, chữ “Hoạt” trong chữ môn là chữ “Khoát” (nghĩa là rộng). Thừa tướng chê cửa quá to. Một lần khác, có người biếu Tào Tháo một hộp bơ, Tào Tháo ăn một miếng rồi viết chữ “Hợp” lên nắp hộp và đưa cho mọi người. Mọi người chưa hiểu, Dương Tu cầm hộp và ăn luôn, còn nói, chẳng phải “Mỗi người một miếng” sao? Nếu nói đó chưa phải là hành động thô thiển, khiếm nhã, thì những biểu hiện của Dương Tu trước ba quân đã làm Tào Tháo có ý muốn giết rồi. Năm 219, Tào Tháo thống lĩnh đại quân từ Tràng An ra Tà Cốc, tiến quân vào Hán Trung, chuẩn bị quyết chiến với Lưu Bị, nào ngờ Lưu Bị lại ém quân chỗ hiểm, cố thủ không đánh. Tào Tháo muốn đánh nhưng không tiến được, muốn thủ lại không có chỗ, tiến thủ đều khó. Một hôm thuộc hạ xin khẩu lệnh trong quân, Tháo chỉ nói, “kê cân” (gân gà). Dương Tu nghe xong đi thu dọn hành trang luôn. Mọi người vội hỏi lý do Dương Tu nói: “Món gân gà này ăn thì vô bổ, vứt thì tiếc, chúa công dự định quay về”.
Lần này Dương Tu lại đoán đúng, nhưng chỉ e lần này Dương Tu sẽ mất đầu. Quả nhiên, chưa đến nửa năm sau, Tào Tháo đã giết Dương Tu, với tội: “Tiết lộ ngôn giáo, giao kết chư hầu”, tương đương với các tội tiết lộ bí mật quốc gia, câu kết bè đảng, nói lời mê hoặc dân chúng.
Nghe đâu trước khi chết, Dương Tu từng nói với người khác: “Chết thế này còn hơn là muộn”. Nhưng nếu Dương Tu cho rằng mình chết do can hệ với Tào Tháo, chết như vậy là không rõ ràng. Dương Tu không hiểu mình đang sống trong thể chế chuyên chế mà Tào Tháo là một trong mấy kẻ “chúa nghi kỵ” trong chế độ đó. Loại nhân vật này luôn luôn nghi kỵ và đề phòng. Họ sợ nhất và hận nhất những ai đoán thấu tâm can của mình. Bởi vì muốn duy trì nền thống trị độc tài chuyên chính của họ thì phải thi hành chính sách ngu dân và đường lối chính trị đặc vụ. Họ muốn nắm vững tất cả về người khác, nhưng lại không muốn người khác biết được suy nghĩ của mình, ngoài những điều họ muốn ám chỉ hay nhắc nhở. Tóm lại, kẻ độc tài cần phải thần thánh hoá mình, có vậy mới là “thiên uy khó lường”, khiến người khác phải lo sợ, còn mình thì thoải mái hành sự. Dương Tu nhìn thấu tâm can Tào Tháo, còn đoán được Tào Tháo sẽ hỏi gì trước gì sau, như vậy thực đáng sợ. Có một nhân vật như chiếc máy X-quang ở ngay cạnh, Tào Tháo còn có thể chơi trò chính trị không? Nếu Dương Tu đoán được nhưng không nói ra, có thể sẽ hay hơn. Đằng này Dương Tu lại nói khắp nơi, kích động một số người không thần phục, chí ít cho Tào Tháo là không sâu sắc. Vì vậy, cái đó trước sau gì cũng phải nhổ. Có thể nói, Nễ Hành chết vì không hiểu người, Dương Tu chết vì quá hiểu người. Nhưng cả hai đều không hiểu chính mình và không hiểu giữa người với người phải xử sự như thế nào.
Nói đơn giản, Thôi Diễm chết vì trung thành chính trực, Khổng Dung chết vì không thức thời, Nễ Hành chết vì điên khùng xằng bậy, Dương Tu chết vì tự coi mình là thông minh. Thôi Diễm chết là oan nhất. Nễ Hành chết vô nghĩa nhất.
Chú thích


(1) Bá Di được coi là điển hình của người “quân tử”, nghe nói Bá Di, mắt không nhìn việc ác, tai không nghe điều ác, là vua của mình mới thờ, là dân của mình mới khiến. Sử Ngư là điển hình của “trực thần”, vì Linh công không nghe lời trung của ông, nên trước lúc lâm chung có để lại di chúc, không cho người nhà làm tang lễ ở chính đường, cuối cùng thì dùng cách, lấy thi thể để khuyên, Vệ Linh công đã phải sửa chữa sai lầm. Vì vậy Khổng Tử nói: Chính trực thay, Sử Ngư! Đất nước có đạo, Sử Ngư thẳng như mũi tên, đất nước vô đạo, Sử Ngư vẫn thẳng như mũi tên. Mạnh Tử nói: Nghe theo phong cách Bá Di thì kẻ tham cũng thành liêm, kẻ đớn hèn cũng biết lập chí.

(2) Lỗ Tấn: “Quan hệ giữa phong độ và văn chương Nguỵ Tám, giữa thuốc và rượu” (Tác giả).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyThu Aug 21, 2014 11:20 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
TÀO THÁO
- 5 -
Vô tình chưa hẳn là hào kiệt thực
Tào Tháo chưa hẳn đã thích giết người. Tào Tháo vốn là người rất quý sinh mạng, rất yêu cuộc sống và cũng rất trọng tình cảm.
Tào Tháo tuy tàn nhẫn nhưng không bạo ngược; lạnh lùng nhưng không vô tình. Tàn nhẫn và lạnh lùng không phải là bản tính trời sinh của Tào Tháo. Đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự tàn khốc buộc Tào Tháo phải như vậy. Bởi Tào Tháo không tàn nhẫn thì người khác cũng tàn nhẫn với Tào Tháo; Tào Tháo không lạnh lùng thì không thể thắng nổi kẻ thù hung ác. Trước mặt Tào Tháo là cuộc đấu tranh một sống một chết. Không biết có bao nhiêu người đang tìm cách để nắm gáy Tào Tháo, không biết có bao nhiêu người cười nhạo Tào Tháo trong cơn hoạn nạn nguy khốn, không biết có bao nhiêu người đang mài dao tuốt kiếm chờ lấy đầu Tào Tháo. Tào Tháo không thể không lạnh lùng, không thể không tàn nhẫn, không thể không vượt lên trước lấy mạng người khác, thậm chí phải giết cả những người vô tội. Nhưng, yêu quý sinh mạng, tôn trọng tình cảm mới là bản tính của Tào Tháo. Vì vậy, lào Tháo giết người không chớp mắt, nhưng không lấy giết người làm vui, chấp pháp không nể tình, nhưng thấu tình đạt lý.
Những việc như vậy có không ít. Sau khi giết Viên Đàm, Tào Tháo từng có lệnh: Ai dám khóc, sẽ bị giết cùng với vợ con! Nhưng Kỷ Châu biệt giá Vương Tu lại ngang nhiên kháng lệnh, đến bên thi thể Viên Đàm khóc ầm lên, còn yêu cầu được mai táng thi thể Viên Đàm. Tào Tháo có ý giữ yên lặng không đồng ý. Vương Tu nói: “Vương mỗ chịu ân sâu nhà họ Viên, không thể không báo. Sau khi mai táng xong Viên Đàm, sẽ xin được chết, chết mà không ân hận!”. Tào Tháo lấy làm cảm động, nói đúng là một nghĩa sĩ! Tào Tháo không những không giết Vương Tu, còn bổ nhiệm là Tu kim trung lang tướng. Sau khi Khổng Dung mất, rất nhiều người trước đây từng qua lại, không dám đến dự tang lễ ngoại trừ Chỉ Tập (tự Nguyên Thăng) người Kinh Triệu. Chỉ Tập phủ phục bên thi thể Khổng Dung mà khóc: “Văn Cử ôi Văn Cử, ông bỏ ta mà đi, từ nay ta còn biết nói chuyện với ai, ta sống liệu còn có ý nghĩa gì?”.
Sau này Chí Tập đã đến nhận sai với Tào Tháo, Tào Tháo gọi tự của Chỉ Tập nói: “Nguyên Thăng ôi Nguyên Thăng, cậu thật khẳng khái và đa tình!”. Còn hỏi Chỉ Tập hiện sống ở đâu. Nghe nói Chỉ Tập vừa dọn nhà, Tào Tháo liền sai người ban cho một trăm đấu thóc.
Thực tế thì Tào Tháo là người đa tình và khẳng khái. Quách Gia tuổi trẻ đã qua đời, Tào Tháo đau khổ đến sống dở chết dở. Tào Tháo dâng biểu triều đình, viết thư cho Tuân Úc, cùng Tuân Úc và mọi người trò chuyện về Quách Gia, và mỗi lần như vậy Tào Tháo đều rơi lệ, xót xa. Tháo nói: Phụng Hiếu tuổi chưa đầy bốn mươi (mới ba mươi tám), mười một năm cùng ta. Trong những ngày gian khổ đó, Phụng Hiếu đã cùng ta ra tay chèo chống. Tất cả đều gian nan khốn khó như ngàn cân treo sợi tóc! Trong lúc ta chưa biết phải làm gì, Phụng Hiếu đã quyết đoán kịp thời, nhanh chóng lập công. Chỉ mình Phụng Hiếu là hiểu được tâm nguyện của ta. Ta và các vị đều cùng thời, chỉ mình Phụng Hiếu là trẻ tuổi nhất, từ lâu ta định nhờ cậy Phụng Hiếu về hậu sự, nào ngờ Phụng Hiếu lại ra đi trước ta. Thực ra, Phụng Hiếu đã biết trước là nguy hiểm. Vì sức yếu, miền nam lại nhiều dịch bệnh, nên Phụng Hiếu thường nói, đến miền nam rồi chỉ sợ không còn sống mà quay lại, nhưng vì muốn cùng ta vượt qua hoạn nạn, nên Phụng Hiếu nhất quyết ra đi. Tình sâu nghĩa nặng đó, ta làm sao mà quên được! Nay, tuy ta đã quỵ công, phong thưởng, nhưng đối với một người chết, việc đó còn có tác dụng gì, còn có tác dụng gì đây? Trong thiên hạ, thực khó kiếm được người tri kỷ, khó khăn lắm mới có được một người thì lại vội bỏ ta mà đi. Trời xanh ở đâu? Ngươi bảo ta phải làm gì, làm gì đây?”. Đọc đoạn văn trên, hẳn trong chúng ta không ai là không cảm động.
Ngay với số bè bạn từng phản lại mình, Tào Tháo vẫn rất coi trọng những tình cảm cũ. Trần Cung và Tào Tháo từng có thời đi lại với nhau không bình thường, Tào Tháo được nhận chức duyện châu mục là do công lao của Trần Cung đã rời bỏ Tào Tháo, chạy sang với Lã Bố và quyết tâm giúp Lã Bố đánh Tào Tháo. Sau khi bị bắt làm tù binh, Trần Cung thà chết không chịu hàng. Tào Tháo liền gọi tự của Trần Cung: “Công Đài, cậu muốn chết thì chết, nhưng còn mẹ cậu thì sao?”. Trần Cung thở dài, nói: “Trần mỗ nghe nói, người lấy hiếu, trị thiên hạ không bao giờ giết người thân kẻ khác, mẹ già sống hay chết do minh công quyết định. Tào Tháo lại hói: “Thế còn con và vợ cậu thì sao?”. Trần Cung đáp: “Nghe nói người cai trị thiên hạ bằng nhân chính không làm người khác phải tuyệt hậu, vợ con sống hay chết đều do minh công biết nên làm thế nào”.
Nói xong, không hề nhìn lại, đi thẳng ra pháp trường. Tào Tháo rơi lệ, nhìn theo đưa tiễn. Sau khi Trần Cung chết, Tào Tháo trông nom mẹ già, lo gả chồng cho con gái của Trần Cung, đối đãi còn khá hơn khi xưa.
Đúng là Tào Tháo rất trọng tình bạn, Tào Tháo rất mong trong cuộc sống và sự nghiệp của mình, có thể có được nhiều bạn bè. Trong bài thơ “Đoản ca hành”, Tháo viết:
“Thanh Thanh tử khâm, du du ngã tâm.
Đãn vi quân cỗ trầm ngâm chí câm.
Ưu lộc minh, thực dã chi binh.
Ngã hữu gia tân, cổ sắt suy sênh.
Minh minh nhu nguyệt, hà thời khả chuyết?
Ưu tông trung lai, bất khả đoạn tuyệt.
Việt mạch độ thiên, uổng dụng tương tồn.
Khế khoát đàm yến, tâm niệm như ân”.
Bài thơ này rất cảm động có thể dịch như sau:
“Người mặc áo xanh kia, làm lòng ta nhung nhớ.
Chỉ vì yêu quỷ anh ta, khiến nay ta vẫn trầm ngâm.
Bầy hươu gọi nhau u u, đến ăn cỏ bình trên cánh đồng.
Ta nghênh tiếp các vị khách quỷ, hãy tấu đàn sắt, hãy thổi sênh lên.
Vầng trăng vằng vặc trên cao kia, khi nào mới có thể hải được?
Nỗi ưu sầu dằng dặc trong lòng, không làm cách nào dứt ra được.
Người khách vượt qua những con đường nhỏ mà đến, thật là vất vả hỏi thăm nhau.
Lâu ngày gặp lại được cùng nhau uống rượu đàm đạo, ân tình xưa cũ quả thật khó quên”.
Trước lúc lâm chung là lúc thể hiện rõ nhất Tào Tháo là người trọng tình.
Năm 220, Tào Tháo bị bệnh nặng. Lúc này Tào Tháo đã sáu mươi sáu tuổi, theo cách nói “nhân sinh thất thập cổ lai hy”, Tào Tháo coi là đã sống đủ. Một người phóng khoáng như Tào Tháo, hẳn sẽ chẳng ngại gì với sống chết, và cũng không mấy bận tâm đến công tội, được mất của mình. Tào Tháo để lại bản “Di lệnh” rất dài, coi là lời bàn giao cuối cùng. Nhưng điều khiến mọi người ngạc nhiên là ở đó, nhà chính trị kiệt xuất không hề nói tới chính trị. Nói về công tội được mất cũng chỉ có một câu: “Ta chấp pháp trong quân nói chung đều là đúng, còn việc nổi nóng nhỏ, phạm sai lầm lớn thì đều không đáng nói. Phần còn lại của Di lệnh, nói tới nhiều chuyện vụn vặt khác, như tì thiếp và các ca kỹ lúc thường đã rất vất vả, sau khi ta qua đời, cho họ ở đài Đổng Tước, không được ngược đãi họ. Những hương phấn còn thừa, thì chia ra, không dùng để cúng tế, tránh lãng phí. Đàn bà ở các phòng nếu còn rỗi thì cho học vá may, bện giày cỏ đem bán…, một thôi một hồi nữa.
Một số người đời sau xem thường chuyện này. Lục Cơ người đời Tấn, nói có phần văn vẻ, uyển chuyển: “Tình cảm sướt mướt, lưu luyến nơi khuê phòng”, “thương vợ còn nuối tiếc, hận cuối đời mới hiểu” (“Điếu Nguỵ Vũ đế văn”). Tô Đông Pha thì chẳng khách khí gì, bất luận là ai, chỉ cần “không sợ khi lâm nạn, tươi cười trước cái chết” mới xứng là anh hùng. Như Tháo, trước lúc chết còn khóc lóc, “lưu luyến thê thiếp, chia hương bán dép” là thế nào? Vì vậy, Tô Đông Pha nói toẹt luôn: “Bình sinh gian dối, lúc chết mới thật”. Ý tứ trong “Khổng Bắc Hải tán” rất rõ ràng: “Đừng thấy Tào Tháo lúc thường, giở trò, ra vẻ ta đây là anh hùng hào kiệt mà nhầm, thực chất là kẻ gian hùng, tới lúc chết mới thòi đuôi!”.
Tô Đông Pha là nhà văn tôi thích nhất, nhưng với lời bàn cao siêu trên, tôi không dám đồng tình. Tào Tháo bệnh chết, không bị lôi ra chặt đầu ngoài pháp trường, vậy ông muốn người ta “lâm nạn không sợ” như thế nào? Tào Tháo không kêu trời kêu đất, khóc lóc không muốn chết, sao không phải là anh hùng? Người xưa nói: “Khẳng khái xông vào cái chết, dễ, ung dung chết vì nghĩa lớn, khó”. Tào Tháo tuy không chết vì nghĩa lớn, nhưng đã chết một cách ung dung. Có thể sáp xếp nhiều việc hậu sự, đó là biểu hiện của sự ung dung. Đúng vậy, so với mấy lời khẳng khái, hào hùng trước lúc chết của nhiều nhân vật anh hùng thì bản “Di lệnh” của Tào Tháo chẳng anh hùng chút nào, giống hệt như mấy lời của người dân bình thường, chẳng ra gì. Nhưng tôi cho rằng đó mới thật là Tào Tháo. Tào Tháo là người, không phải là thần. Tháo vốn là người bình thường, không phải (cũng không muốn) là “thánh nhân” siêu phàm thoát tục. Hơn nữa, với thân phận địa vị như vậy mà dám công khai bộc lộ cái “phàm phu tục tử” ra ngoài, không che che giấu giấu, ra vẻ ta đây, thì đó là chỗ hơn người, là bản sắc anh hùng của Tào Tháo: Ta là người tục, các ngươi sẽ thế nào đây! Ta nghĩ sao nói vậy, thích gì làm nấy, các ngươi sẽ thế nào đây? Theo tôi, so với những bản “di chúc” đầy giọng quan lại, đầy khẩu hiệu chính trị thì “Di lệnh” của Tào Tháo chân thật hơn nhiều, đáng quý hơn nhiều. Ngược lại, Tô Đông Pha giỏi giang, ít nhiều đã lòi đuôi là kẻ dung tục.
Đương nhiên, Tô Đông Pha nói cũng đúng “Bình sinh gian dối, lúc chết mới thật”. Có điều giữa chúng ta và Tô, sự hiểu biết và đánh giá về “chân tính” không giống nhau. Theo tôi đó là nhân tính. Tào Tháo không phải là cô máy giết người hay phù hiệu chính trị, Tào Tháo là người, một người có máu thịt, có tư tưởng tình cảm. Nếu nói, lúc thường vì nhu cầu đấu tranh chính trị, Tào Tháo không thể không che giấu nội tâm của mình (tức là “bình sinh gian dối”), vậy, trước lúc chết còn gì phải nghi kỵ nữa (tức là “lúc chết, lời nói mới thật”. “Lời thật” trước lúc lâm chung của Tào Tháo nói lên sự quyến luyến cuộc sống, tình thương nhớ những người thân.
Tào Tháo nam chinh bắc chiến, cả đời trên lưng ngựa, cuộc sống thường ngày với gia đình không nhiều, nên đã gìn giữ nhiều tình cảm đặc biệt với người thân. Có vậy, trước lúc lâm chung Tào Tháo mới nói: Cá đời ta đã làm nhiêu việc, không hê phái hối hận ta chưa không phải với ai, duy có một việc khi xuống cửu tuyền, nếu Tử Tu đến đòi mẹ, ta không biết phải trả lời ra sao. Tử Tu là Tào Ngang, con cả của Tào Tháo. Mẹ đẻ của Tào Ngang là Lưu phu nhân mất sớm, Tào Ngang được Đinh phu nhân - người không sinh nở được nuôi dưỡng. Đinh phu nhân coi Ngang như con đẻ. Về sau Tào Ngang chết trận, Đinh phu nhân khóc lóc thảm thiết, vừa khóc vừa chửi, còn trách móc Tháo: “Con thiếp bị giết, ông không hề quan tâm”. Tào Tháo bực bội, sai đưa họ Đinh về nhà ngoại. Cho nên trước lúc qua đời, Tào Tháo mới nói vậy.
Thực ra thì Tào Tháo cũng đã làm hết sức mình, Tháo đích thân đến nhà mẹ đẻ Đinh phu nhân đón bà, nhưng Đinh phu nhân ngồi trước khung cửi dệt vải, không động đậy, cũng không đếm xỉa đến Tào Tháo. Tào Tháo đến bên, để tay lên lưng phu nhân, giọng nói nhẹ nhàng: “Chúng ta cùng ngồi xe về nhà được không?”. Đinh phu nhân không màng trả lời. Chẳng còn cách nào khác. Tào Tháo đành phải chia tay với phu nhân. Với tính nóng nảy, bạo ngược hung hãn, Tào Tháo làm được như vậy thực không đơn giản. Hơn nữa, không muốn để Đinh phu nhân phải đơn chiếc, Tào Tháo đã bằng lòng để Đinh phu nhân cải giá. Đinh phu nhân không chịu, cha mẹ phu nhân cũng không dám. Đương nhiên là không dám, dù có dám gả thì cũng chẳng ai dám lấy.
Trước lúc lâm chung, Tào Tháo còn việc nữa chưa an tâm, là việc đứa con nhỏ Tào Cán. Lúc Tào Cán ba tuổi thì mẹ đẻ Trần Cơ qua đời, bây giờ Cán mới năm tuổi. Vì vậy, Tào Tháo mới có di lệnh riêng cho Tào Phi: “Nó ba tuổi mất mẹ, năm tuổi mất cha, lại mệt cho ngươi rồi”. Vì có đạo di lệnh, hơn nữa, lúc lập tự Tào Phi lại được mẹ đẻ Tào Cán giúp đỡ, nên sau này đối với Tào Cán, Tào Phi cũng có vài phần “huynh trưởng như cha”. Lúc Tào Phi lâm chung, lại gửi Tào Cán cho Minh đế Tào Duệ. Tào Duệ đối với Tào Cán cũng khá, có phần ân sủng hơn, phong tới chức Triệu vương. Lục Cơ có lời bàn về chuyện này: “Đau lòng thay. Mới tự mình gánh vác cả thiên hạ, mà nay phải gửi gắm đứa con yêu cho người khác”. Một người có thể gánh vác cả thiên hạ, lúc lâm chung đành phải gửi con yêu cho người khác (dù “người khác” cũng là con mình), nói ra thì đây là điểm khiến mọi người phải thương cảm, nhưng đây đúng là chân tình của một con người.
Thực tình thì con người là rất yếu đuối, vĩ nhân cũng thế thôi.

Ngài Lỗ Tấn từng nói: “Vô tình chưa hẳn là hào kiệt thực, thương con, sao không phải trượng phu?”. Tào Tháo thương con, Hạng Vũ biệt Cơ, họ đều là những người có tình và đều là hào kiệt thật, là đại trượng phu.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyFri Sep 05, 2014 2:01 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
TÀO THÁO
- 6 -
Gian hùng đáng yêu
Tào Tháo không chỉ có tình, mà còn đáng yêu.
Điểm đáng yêu nhất của Tào Tháo là thích nói thật. Trong đấu tranh chính trị, bươn chải nơi quan trường, tránh sao khỏi phải giả dối, ít ra cũng là lời nói trong chốn quan trường, huống chi Tháo lại là “gian hùng”. Nhưng chỉ cần có điều kiện là Tháo nói thật hoặc gần như thật, không có vẻ gì là quan cách. “Nhượng huyện tự minh bản chí lệnh” vốn là bài chính trị cực kỳ quan trọng, xứng đáng với bốn chữ “cương lĩnh chính trị”, nhưng lại viết rất thật, rất rõ ràng, không hề quan cách. Mở đầu Tháo nói, cá nhân tôi vốn chẳng có hùng tâm tráng chí gì, cũng không phải là nhân sĩ nổi tiếng. Lúc đầu chỉ muốn là một quận thú tốt, về sau chỉ muốn là một tướng quân tốt, không dám có nhiều quân. Chỉ vì thời thế biến đổi, nên tôi mới có vị trí như bây giờ, đúng là “ý nguyện được thực hiện, là nhân thần cao quý nhất”. Lúc này đã có thể nói mạnh: Một khi đất nước không có Tào mỗ này, liệu sẽ có mấy người xưng đế, mấy người xưng vương. Số người đàm tiếu về Tào mỗ cũng nhiều hơn. Tôi có thể nói thẳng với mọi người: Tôi chỉ muốn là Tề Hoàn công, Tấn Văn Công, phụng thiên tử để lệnh các chư hầu. Điều này, tôi không chỉ nói với các vị, mà còn nói cả với vợ, con. Tôi còn muốn trăm năm sau, mọi cơ thiếp đã được cải giá, sẽ lan truyền nguyện vọng của tôi ra khắp bốn phương. Cũng vậy, tôi muốn nói rõ với mọi người, tôi sẽ không bao giờ rời bỏ binh quyền, về quê dưỡng già. Vì sao vậy? Vì sợ, một khi mất hết binh quyền, tôi sẽ bị hãm hại, đất nước sẽ không yên bình. Tôi có thể nhường một ít đất mà hoàng thượng ban thưởng, còn quyền lực thì không nhường. Tóm lại, “đất nước chưa yên, không thể nhường quyền; còn như đất đai, tôi có thể nhường”. Đó là thái độ của tôi!
Những lời nói trên là hết sức rõ ràng chân thực, rõ ràng chân thực đến mức không còn gì để nói. Bảo Tháo khuếch khoác chăng, Tháo không bốc phét, thuở thiếu thời Tháo không có địa vị, danh vọng gì, bảo Tháo dối trá chăng, Tháo không dối trá, Tháo nói, Tháo muốn làm quan, muốn là Tề Hoàn công, Tấn Văn Công dã tâm rất lớn; bảo Tháo giả khiêm tốn chăng, không, khẩu khí của Tháo rất lớn, từng nói không có Tào mỗ, thiên hạ sẽ loạn ngay; bảo Tháo không thật chăng, Tháo rất thật, nói, không một giây phút nào rời khỏi quyền lực, một chút cũng không nhường. Nói đến vậy thì liệu còn ai có thể nói gì thêm? Không còn ai.
Rõ ràng Tào Tháo là người thông minh. Trong thời đại người người đều dối trá thì nói thật là vũ khí tốt nhất. Đó không chỉ vì bản thân lời nói thật có sức mạnh hùng biện, còn vì lời nói thật làm cho kẻ nói dối không còn đường rút, vở diễn của họ cũng phái khép lại, buỗi diễn phải hạ màn. Vì vậy để đối phó với loại người thường ra vẻ quan cách, luôn khuếch khoác, dối trá, thì biện pháp tốt nhất là luôn nói thật. Giống như đứa trẻ reo lên: Ôi! Hoàng đế không mặc quần áo. Lúc này, những kẻ chuyên dối trá sẽ phát hiện ra mình cũng không mặc quần, thực đáng hổ thẹn, thực vô tích sự.
Tào Tháo nói như vậy, không hoàn toàn vì sách lược đấu tranh, mà vì bản tính của Tào Tháo là ưa nói đúng, nói thật. Vì vậy Tào Tháo nói rất tự nhiên, rất lưu loát và mạnh mẽ. Tuy đằng sau lời nói đúng đó, còn có chút chưa sát, đằng sau lời nói thật đó còn có chút giả dối, thậm chí còn có việc chưa cho người ta biểu, nhưng tất cả đều được giấu kín, không để lộ chân tướng. Tào Tháo cũng rất thực tế. Bữa ăn không cần cầu kỳ, quần áo không cần cầu kỵ, chỗ ở cũng đơn giản, chỉ cần no bụng, đủ chất, quần áo vừa vặn, chăn đắp thật ấm là được. “Nhu yếu phẩm xa xỉ” duy nhất của Tào Tháo có thể là các nghệ nhân ca múa và những người thiếp. Tào Tháo có phần háo sắc, nhưng cũng rất thực tế, không hề lấy cớ là “đường con cái khó khăn”. Tào Tháo đón nhận nhân tài cũng rất đơn giản, Tháo nói, bất kể là ai, trên triều cũng được, ngoài dã cũng được, nhã hay tục đều được, chỉ cần biết trị quốc dụng binh là được, còn mang tiếng chưa hay, hành vi buồn cười, thậm chí là bất nhân bất hiêu cũng chẳng sao, miên là chú mèo tốt biết bắt chuột già.
Cũng chính vì đơn giản như vậy, nên Tào Tháo vừa gian trá lại vừa rất đáng yêu. Lúc tây chinh Mã Siêu, Hàn Toại, Tào Tháo và Hàn Toại gặp nhau trên trận địa, binh sĩ của Hàn Toại nghe tin Tào Tháo xuất hiện đã ùa lên và rướn cổ lên nhìn. Tào Tháo nói to: “Các ngươi muốn nhìn Tháo ta chăng? Nói để mọi người hay, ta là người như mọi người, không hề có bốn mắt hai miệng, chỉ có một chút trí tuệ là hơn mọi người!”. Lời nói rất đơn giản, cũng rất đáng yêu.
Trong sinh hoạt hàng ngày, Tháo rất thoải mái, rất tuỳ tiện. Tháo thường mặc áo lụa mỏng, lưng thắt đai da, tay cầm mấy thứ lặt vặt như khăn lau mặt, có lúc còn đội mũ thường bằng lụa để tiếp khách. Lúc nói chuyện với mọi người luôn thoải mái, nghĩ gì nói nấy, muốn nói gì thì nói luôn. Nói đến chỗ vui thì cười ngặt nghẽo, đầu gục xuống khay trà, mũ tóc ướt hết. Tháo rất thích nói đùa, ngay cả khi có việc nghiêm chỉnh.
Năm Kiến An thứ mười bảy, lúc cải cách cơ cấu, có người yêu cầu phân chia Đông Tào, có ý trách Tào Tháo chuyện Đông Tào, chuyện Mao Giới nặng về lý nhẹ về tình. Tào Tháo trả lời sâu sắc và rất vui: “Mặt trời mọc đàng đông, trăng sáng từ hướng đông. Đông tây, đông tây, người ta luôn nói đông trước rồi mới đến tây, vì sao phải phân chia Đông Tào?”. Lại như Diêm Hành đầu hàng Hàn Toại, có cha đang là con tin trong tay Tào Tháo. Tháo liền có thư cho Diêm Hành: “Lúc này lệnh tôn đại nhân đang bình yên vô sự. Có điều, lao ngục không phải là nơi dưỡng lão, hơn nữa, nhà nước cũng không thể nuôi dưỡng cha già cho người khác!”.
Tào Tháo thích nói đùa và cũng rất thích những người bạn biết nói đùa. Thái uý Kiều Huyền là người từ lâu đã thích Tào Tháo, được coi là “bạn vong niên” của Tào Tháo. Trong văn tế Kiều Huyền, Tào Tháo có câu: “Năm đó Kiều lão cùng ta “ung dung thề bồi”, “Sau khi ta qua đời, lúc ngang qua mộ ta, nếu không có một con gà, một bình rượu vào lễ, thì lúc xe qua được ba bước, nếu có đau bụng thì đừng trách”. So với lời điếu của các quan thì bài văn tế này rất đáng yêu và tình cảm, chân thực hơn nhiều. Tào Tháo còn một người bạn cùng quê là Đinh Bùi, là kẻ tham lam vụn vặt, từng dùng chức quyền đổi con bò gầy của nhà lấy con bò béo, kết quả bị bãi quan. Tào Tháo gặp họ Đinh có ý hỏi: “Văn hầu à, quan ấn của ngươi vứt đi đâu rồi?”. Đinh Bùi vui vẻ cười, nói: “Đổi lấy bánh nướng ăn rồi”. Tào Tháo cười khà khà, quay lại nói với mấy người hầu: “Nhiều lần Mao Giới bảo ta phạt Đinh Bùi thật nặng. Ta nói, hắn giống như con mèo thích ăn vụng và biết bắt chuột, lưu lại vẫn có ích”.
Với tính cách đó, Tào Tháo có thêm nhiều thuận lợi trong sự nghiệp của mình. Người làm chính trị nếu nghiêm chỉnh quá cũng không hay, mọi người cảm thấy quá sâu sắc nên không tin hoặc cảm thấy không hiểu tình người nên khó gần. Tốt nhất là, lúc làm việc thì nghiêm túc chăm chỉ, lúc thường thì thoải mái dễ dãi; điều gì thuộc nguyên tắc thì không buông, còn những thứ vụn vặt thì qua loa đại khái, như vậy chỉ có đủ uy nghiêm uy vọng của lãnh tụ, còn được coi là người tình cảm, hài hước. Người như vậy luôn được người khác quý mến, ủng hộ và trung thành. Tào Tháo chính là người như vậy.
Đúng, Tào Tháo tuy thoải mái tuỳ tiện, nhưng không hề nông cạn. Thực ra, Tào Tháo là người thâm trầm.
Dường như mọi người đều cho Tào Tháo là xảo trá, nhưng không ít người lại cho Tào Tháo là nông nổi, như vậy là sai lầm trong lúc bình phẩm người khác. Xảo trá và nông nổi là hai tính cách không thể dung hoà. Người nông nổi tất không xảo trá, còn người xảo trá thì nhất định là thâm trầm. Vì thâm trầm nên tâm địa mới sâu sắc, tâm địa sâu sác mới có quyền mưu. Người nông nổi thì chẳng giấu được ai, người nông nổi lại muốn có âm mưu quỷ kế sao? Chuyện đùa.
Thực tế thì Tào Tháo không nông nổi và cũng không thích người nông nổi. Trong mắt Tào Tháo thì Khổng Dung, Nễ Hành thuộc loại người nông nổi, chính vì coi họ là loại người nông nổi, nên mới trục xuất Nễ Hành, mới không vội vàng ra tay với Khổng Dung. Tận khi Khổng Dung dâng thư đề xuất chủ trương “không phong hầu trong phạm vi ngàn dặm”, gần như là đuổi Tào Tháo ra vùng hẻo lánh xa xôi (lúc này Tào Tháo được phong Vũ Bình hầu, phong ấp cách Hứa Đô chừng ba trăm dặm), Tào Tháo hết cách nhẫn nhịn. Tuy vậy, trước mắt Tào Tháo vẫn cảnh cáo Khổng Dung với danh nghĩa người điều hoà mâu thuẫn giữa Khổng Dung và Si Lự, Tào Tháo có thư gửi Khổng Dung, nói: “Tuy ta tiến không thể thực hiện giáo hoá di phong di tục, lui không thể xây dựng nhân đức đoàn kết đồng liêu, nhưng ta nuôi dưỡng chiến sĩ, xả thân vì nước, còn có nhiều biện pháp đánh vào lũ tiểu nhân nông nổi hư vinh, thích kéo bè kết đảng”. Rõ ràng Tào Tháo căm ghét lũ nông nổi và đương nhiên, không hề nông nổi.
Không sai, lúc nhỏ Tào Tháo không thực “nghiêm chỉnh”. Tào Tháo thích bay nhảy vui đùa, làm những việc không đâu, thậm chí là những việc có phần ác ý nhưng cũng thích đọc sách, đây chính là điểm khác với Lưu Bang, Hạng Vũ và những người khác. Về sau, trong cuộc đấu tranh chính trị gay gắt và phức tạp, Tào Tháo mới trở nên trầm tĩnh, lòng dạ sâu xa. Sử sách còn ghi, Tào Tháo “cầm quân hơn ba mươi năm, tay không rời sách, ngày bàn về võ nghệ, đêm nghĩ đến kinh truyện”. Đó là người nông nổi sao? Tào Tháo mặc áo thường, nói chuyện vui, làm văn thơ, nghe âm nhạc, tiếc rằng đó chỉ là giây phút nghỉ ngơi sau lúc làm việc căng thẳng và đó cũng là biểu hiện thế giới nội tâm phong phú của Tào Tháo. Rõ ràng đó còn là viên đạn bọc đường nhằm làm tê liệt kẻ thù. Tào Tháo làm văn, làm việc, dùng người không hề câu nệ, càng không nông nổi, mà rất mạnh mẽ. Đại pháp vô pháp. Đối với ngòi bút cứng cỏi của Tào Tháo thì không cần phải nhiều cách thức, luật lệ như vậy.
Tào Tháo thâm trầm, biểu hiện ở chỗ hiểu đúng người, ý nghĩ sâu xa. Tào Tháo mưu sâu kế xa. Bề ngoài, Tào Tháo có thể nắm tay bạn, nói chuyện vui, cùng nhau hi hi ha ha, nhưng Tào Tháo đang quan sát bạn và quan sát rất kỹ. Viên Thuật hung hăng càn rỡ, Viên Thiệu ngông cuồng, tự cao tự đại hết mức, Tào Tháo đều không coi ra gì. Nhưng lại nhìn Lưu Bị bằng con mắt khác. Lưu Bị trước kia bán dép cỏ, hiện đang ăn đậu ở nhờ người ta. Dù Lưu Bị đang giấu tài, giả ngây giả dại, Tào Tháo thoạt nhìn đã nhận ra: “Nay anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và Tháo này”, Lưu Bị sợ đến rơi cả đũa. Có lẽ Tào Tháo không nên nói câu này trước mặt Lưu Bị, nhưng có thể giải thích là thiếu thận trọng, là bắn pháo để trinh sát, hoặc giết gà doạ khỉ. Ý muốn nói: Trong hai ta, đừng ai vờ là Tôn Tử. Trong hai ta, đừng tưởng ai ngốc hơn ai, hoặc ai thông minh hơn ai. Quả nhiên, Lưu Bị không dám vờ nữa, tìm cớ để xa chạy cao bay.
Nếu nói, để Lưu Bị thoát là một sơ sẩy mà chính Tào Tháo phải tự trách mình, thì việc Tào Tháo loại bỏ người khác, từng bước từng bước thắng lợi, lại tương đối kín kẽ. Để giết Tuân Úc, trước hết, Tào Tháo mời Tuân Úc ra tiền phương uý lạo quân sĩ, điều Tuân Úc ra khỏi triều đình. Tiếp đến, bãi miễn chức thượng thư lệnh, giáng làm tham thừa tướng quân, Tuân Úc trở thành cấp dưới trực tiếp của Tào Tháo. Cuối cùng mới sai người đưa hộp bánh cho Tuân Úc. Tuân Úc mở ra xem thấy bên trong rỗng không, nên phải tự sát. Liệu một người nông nổi có được thủ đoạn như vậy không? Những ai dưới quyền Tào Tháo, cho rằng Tháo là người nông nổi thì e thủ cấp người đó sắp sửa phải dọn ra chỗ khác.
Và Tào Tháo còn là người biết quý trọng cuộc sống, quỷ trọng sinh mạng, thích đọc sách, thích suy nghĩ. Điều đó khiến Tào Tháo thâm trầm, thông hiểu vũ trụ, nhân sinh, khác hẳn những kẻ bụng dạ sâu sắc nhưng mưu mô và dã tâm. Bài “Quy tuy thọ” và “Đoản ca hành” của Tào Tháo, viết: “Rùa thần tuy thọ, còn có lúc chết. Rắn bay lên mây, cũng sẽ thành tro”. Đời người có thể được bao lâu? Khác gì giọt sương mai, tan biến nhanh chóng. “Trước rượu nên ca, đời người được mấy. Như hạt sương mai, ngày tháng khổ bấy?”. Đời người ngắn ngủi là vậy, lẽ nào không tiếc nhớ? Sinh mệnh mềm yếu là vậy, lẽ nào không gìn giữ. Ngày tháng ngắn ngủi như vậy, lẽ nào lại để mất?
Đó có thể được coi là suy tư triết học về vũ trụ nhân sinh. Đương nhiên, Tào Tháo đứng trên lập trường chính trị mà suy nghĩ. Vì vậy Tào Tháo mới kết luận “Ngựa già gục đầu, chí ở ngàn dặm. Liệt sĩ cuối đời, hùng tâm chưa hết”, đúng “núi không ngại cao, nước không ngại sâu, Chu công thổ lộ, thiên hạ theo về”. Ý muốn nói, hãy nắm bắt thời gian ngắn ngủi kia để làm nên sự nghiệp vang trời dậy đất, thực hiện nhiệm vụ chính trị trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Do có ý tưởng “để sinh mệnh ngắn ngủi biến thành vĩnh hằng”, nên “đế vương khanh tướng có nòi chăng” hoặc “đại trượng phu phải nên như vậy” càng có phong độ, có ý nghĩa, càng thêm khí thế.
Đúng là Tào Tháo rất có khí thế. Đọc thơ văn của Tào Tháo, luôn cảm thấy khí phách anh hùng trong đó. Dù là đoạn văn ngắn, từ vui buồn giận dữ thốt ra, từ phấn chấn thích thú viết nên, vì có khí phách nên không hề thô thiển, nhất là bài “Quan thương hải” của Tào Tháo, khí thế biết chừng nào: “Đông đến Kiệt Thạch, nhìn ra biển khơi. Nước lững lờ trôi, sơn đảo sừng sững. Cây cối xanh tươi, hoa cỏ rậm rạp, gió thu lạnh lùng, sóng hồng cuồn cuộn. Ngày tháng trôi qua, như ra từ đó, sao Hán xán lạn, từ đó mà ra”. Những bài thơ như thế này, phải là tay bút giỏi mới làm được. Chung Vanh nói: “Tào công xưa nay vẫn có những câu thực bi thương”. Ngoài lời của Lưu Hiệp “do loạn lỵ chồng chất quá nhiều, phong tục suy đồi, có tâm cao nét bút khỏe, nên mới cảm khái và đầy khí thế”, những tình cảm bi thương đó, còn liên quan đến tư duy triết học về nhân sinh vũ trụ của Tào Tháo. Cuối cùng, Tào Tháo là anh hùng thời loạn, Tháo đã nhìn thấy, nghĩ tới nhiều hơn ai hết về những sinh mệnh bị huỷ diệt. It nhiều Tào Tháo đã quan tâm thương cảm, nên mới xúc động như vậy. Đó chính là Tào Tháo. Tào Tháo đại khí thâm trầm, phóng khoáng, hào sảng, siêu thoát, nhạy bén, hoà hợp, quỷ quyệt, xảo trá, lạnh lùng, tàn nhẫn, đúng là một nhân vật cực kỳ phong phú, nhiều mặt, rất có cá tính, rất biến hoá. Tào Tháo là người sống hẳn hơi, không phải là phù hiệu chính trị hoặc xác chết chính trị, càng không phải bộ mặt suốt ngày u ám, một kẻ côn đồ có tâm sự, chỉ muốn chính trị người khác.
Nhưng Tào Tháo lại được coi là gian hùng, suốt đời mang tiếng xấu.
Đương nhiên, Tào Tháo cũng có chỗ đáng mắng. Tháo giết nhiều người và nhiều người bị oan. Tháo làm nhiều việc mất lòng người, nhiều việc thất đức. Nhưng Lưu Bị, Tôn Quyền, họ không giết người sao? Không làm việc thất đức sao? Lưu Bị bán rẻ cố nhân Lã Bố thật trái đạo, Tôn Quyền phế truất thái tử Tôn Hoà, thật oan uổng. Tôn Hoà là con được Tôn Quyền sủng ái nhất, bản thân biểu hiện không tồi, vừa thông minh, vừa hiếu học, luôn vui vẻ với mọi người. Tôn Hoà bị người khác hãm hại nên thất sủng. Kết quả, số đại thần thấy bất bình, đứng ra nói lý, nhưng đều bị trừng trị, người bị diệt tộc, người bị phạt rồi, người bị đầy, “mọi người đều oan uổng”, tất cả đều cho đó là án oan. Lã Bố thì chết không oan, vì Lã Bố là kẻ xấu. Lã Bố vốn là bộ tướng của Tinh châu thứ sử Đinh Nguyên, Đinh Nguyên coi Lã Bố như người thân, nhưng Lã Bố đã giết Đinh Nguyên để theo Đổng Trác, Đổng Trác coi hắn như con, hắn lại giết Đổng Trác, sang hàng Vương Doãn, về sau rơi vào tay Tào Tháo, lại định vẫy đuôi với Tháo. Lúc đó, Lưu Bị đang ở bên Tào Tháo, Lã Bố liền cầu cứu Lưu Bị, vì trước đây Lã Bố từng giúp Lưu Bị. Lã Bố nói: “Huyền Đức công, nay ngài đang là khách, còn tôi, tội phạm dưới thềm, tôi bị trói chặt quá, ngài không thể nói giúp tôi một lời hay ho sao?”. Lúc này Tào Tháo đang định hạ lệnh nới dây trói cho Lã Bố, thì bất ngờ nghe Lưu Bị nói một câu lạnh tanh: “Minh công không thấy Lã Bố từng đối xử với Đinh Nguyên, Đổng Trác như thế nào sao?”. Một câu nói làm Lã Bố mất đầu, Lã Bố giận quá chửi ầm lên: “Thằng nhóc tai to kia (Lưu Bị tai to quá khổ) thực không thể tin được!”.
Thực tế, Lã Bố tuy là kẻ vong ân bội nghĩa, nhưng việc Lã Bố đối xử với Lưu Bị, đáng để phải suy nghĩ. Năm đó, Viên Thuật vây khốn Lưu Bị ở huyện Bái, Lưu Bị cầu cứu Lã Bố. Lã Bố tuy có mâu thuẫn với Lưu Bị, muốn giết Lưu Bị, nhưng lại tự xông vào chiến trường, đọ kích ở Viên môn, cứu mạng Lưu Bị. Hơn nữa, Lã Bố còn nói rõ với bộ tướng của Thuật: “Lưu Bị là anh em của ta, nay ta đến cứu”. Vì vậy, lần này Lã Bố thấy mình có đủ tư cách cầu cứu Lưu Bị. Rõ ràng, lần trước Lã Bố cứu Lưu Bị là có tính toán riêng (sợ Viên Thiệu được thể sẽ đến đánh mình); Lưu Bị không cứu Lã Bố là nghĩ giúp cho Tào Tháo (giữ thằng nhóc này lại là có hại). Nhưng lấy oán để báo ân là có phần khuyết đức. Trên thực tế, Lưu Bị, Tôn Quyền hay Lã Bố đều giống như Tào Tháo, đặt “lợi ích” lên trên hết, “nghĩa” là thứ hai. Là kiêu hùng thời loạn, trình độ đạo đức, quan điểm đạo đức của họ không khác nhau mấy, kẻ tám lạng người nửa cân, chí ít Tôn Quyền “tính tình đa nghi, quả quyết giết chóc”, cũng là người thích tạo án oan, tàn ác độc địa. Tào Tháo không biết sợ, dám công khai cầm gậy, còn Lưu Bị biết vờ, Tôn Quyền biết nhịn, nên không bị mắng chửi nhiều như Tào Tháo.
Đúng là Lưu Bị và Tôn Quyền giảo hoạt hơn Tào Tháo nhiều (thế lực của họ tương đối yếu, nên không thể không giảo hoạt). Đặc biệt là Lưu Bị giỏi vờ nhất. Trước mặt Tào Tháo, Lưu Bị vờ nhát gan, trước mặt Gia Cát Lượng lại vờ đuối trí, trước mặt bộ hạ vờ là nhân từ, bác ái, trăm họ đều rõ “Lưu Bị ném con để lấy lòng người”. Đương nhiên, nói là thông minh hoặc giảo hoạt, còn thể hiện ở mặt chính trị. Họ luôn thận trọng, giấu kín sự sắc sảo, để khỏi trở thành đích ngắm của vô vàn mũi tên. Tôn Quyền thậm chí còn nhẫn tâm thao túng để Tào Tháo xuất đầu lộ diện, may sao Tào Tháo đã nhìn thấu, nên không bị lừa. Nhưng Tào Phi thì bực bội, nên khi Tào Tháo vừa qua đời, Tào Phi đã hạ bệ Hán Hiến đế, lên làm hoàng đế. Lưu Bị, Tôn Quyền vô cùng phấn khởi: Đã có người dẫn đầu, không làm cũng phí. Thế là họ đều là người làm theo, đường hoàng lên làm hoàng đế. Kết quả, Tào Tháo không làm hoàng đế bị chửi là gian và không có ai chí trích là “thoán” khi Lưu Bị, Tôn Quyền lên làm hoàng đế.
Thực tình thì Tào Tháo bị hố là ở chỗ này: Tào Tháo ở trong triều, Lưu Bị, Tôn Quyền ở ngoài; Tào Tháo xưng đế trước, Lưu Bị, Tôn Quyền sau. Tào Tháo “ép thiên tử để lệnh chư hầu”, lúc đó là hời, đến khi viết sử lại là điều phiền phức: Bất luận thế nào, Tào Tháo cũng không thoát được tội danh “thoán Hán”, không bỏ được cái mũ là “gian thần”, trở thành nhân vật mà mọi vương triều cần phải đề phòng, bị coi là kẻ thù nguy hiểm nhất. Nghĩ xem, nếu bên cạnh có một nhân vật kiểu Tào Tháo thì đố có hoàng đế nào ngủ được? Kết quả, thời bình phải đề phòng Tào Tháo, thời loạn cũng phải đề phòng. Thời bình coi chừng Tào Tháo âm mưu phản loạn, thời loạn đề phòng Tào Tháo nổi sóng nổi gió, không bao giờ yên.
Hoàng đế phải đề phòng Tào Tháo, các quan cũng phải đề phòng Tào Tháo. Liệu có ai muốn đội trên đầu một thượng cấp trực tiếp như Tào Tháo không? Tào Tháo xem thường những ai thiếu bản lĩnh. Chấp pháp nghiêm minh, làm việc chăm chỉ, nói năng thoải mái, hoàn toàn không theo cách thức nơi quan trường, khiến mọi người khó chịu. Nhất là mấy điều của Tào Tháo, “có tài là dùng”, dùng người không kể xuất thân, không nói tới học thức, không xét bối cảnh, chỉ cần công việc có hiệu quả, không chuộng hình thức… Khiến cho số người theo chủ nghĩa quan liêu, chỉ biết “nghe để theo”, hành lễ thêm nghĩa, ưa thói đùn đẩy dựa dẫm, cảm thấy bị uy hiếp. Xưa nay, chủ nghĩa quan liêu luôn chung sống với chế độ quan liêu. Và càng về cuối thời đại phong kiến thì chế độ quan liêu càng thành thục, càng hoàn thiện, chủ nghĩa quan liêu cũng càng nghiêm trọng. Tào Tháo vừa là kẻ thù của chủ nghĩa quan liêu, vừa là kẻ thù của bọn quan lại. Thời đại cũng vậy, người làm việc luôn bị số quan viên không làm việc công kích. Tào Tháo cũng không phải ngoại lệ.
Văn nhân và trăm họ cũng không thích Tào Tháo. Vì Tào Tháo đã giết không ít văn nhân. Văn nhân thích những người cùng cảnh biết thương nhau, trăm họ càng không để ý Tào Tháo có cống hiến gì cho lịch sử. Lục Cơ từng nói: “Họ Tào công nhiều, tội lắm, khiến dân oán!”. Trong số ba lãnh tụ dựng nước thời Tam Quốc Nguỵ, Thục, Ngô, Tào Tháo có nhiều nợ máu nhất, số vụ giết người tàn nhẫn được ghi chép lại cũng nhiều nhất. Nợ máu thì luôn phải trả. Không giết được Tào Tháo thì chỉ trích công khai không được sao? Trong lúc lòng đầy bi thương phẫn nộ, tránh sao khỏi quá lời hoặc miệt thị không đúng sự thực. Chưa hẳn Tào Tháo đã giết cả nhà Lã Bá Sa, cũng chưa hẳn Tháo đã nói: “Thà ta phụ người, không để người phụ ta”. Có điều, Tào Tháo đã từng vu khống người khác, nên lần này Tào Tháo có oan cũng chẳng sao, chỉ là một nợ trả một nợ. Huống chi, đem những việc đó lên đầu Tào Tháo, cũng rất giống. Thế là, hoàng đế, quan viên, văn nhân, trăm họ gần như đồng thanh nói Tháo là “gian”, dù những nội dung cụ thể mà họ chỉ ra là khác nhau.
Quan trọng hơn nữa là Tào Tháo đã đắc tội với nền văn hoá Trung Quốc. Hoặc nói, đã đắc tội với hệ thống đánh giá về con người của nền văn hoá Trung Quốc. Quan điểm của Tào Tháo: Điều quan trọng nhất ở một con người là có tài, có năng lực, “bất nhân bất nghĩa” cũng chẳng sao. Quan niệm truyền thống của văn hoá Trung Quốc là: Điều quan trọng nhất ở một con người là nhân nghĩa trung hiếu, có tài hay không, có năng lực hay không, có thành tích hay không, không quan trọng, thậm chí bình thường một chút càng tốt, dễ thực thà, trung hậu, đáng tin. Vì vậy, người Trung Quốc theo truyền thống xã hội Trung Quốc, sẽ chọn Lưu Bị không chọn Tào Tháo. Một người tài đức như Gia Cát Lượng lại càng được tôn sùng hết sức, một người đã mấy lần phạm sai lầm về quân sự, chôn vùi cơ đồ Thục Hán, nhưng lại hết mực trung thành như Quan Vũ, cũng được tôn sùng hết mức. Tô Đông Pha đã nói câu công tâm, đúng đạo: Gia Cát Lượng “nói về việc quân không bằng Tào Tháo, hiểu biết không rộng bằng Tào Tháo, tranh luận cũng không bằng Tào Tháo, không có điều gì hơn Tào Tháo, ngoài trung tín ra”. Tức là nói, chỉ cần một ít trung tín là có thể áp đảo những người tài năng vượt trội, công luận cái thế.
Đây là bi kịch của Tào Tháo, của lịch sử, của thời đại và cũng là bi kịch của nền văn hoá Trung Quốc. Vì thứ logic “chỉ cần người có đức, không cần người tài nhưng vô đức” phát triển, sau này thành “thà tặng cho nước láng giềng, không cho gia nố của vương triều Đại Thanh”(1). Tạm dịch ra như sau: “Thà nhận một bầy chó và dê, không nhận một chú hổ và báo, nếu như chú hổ và báo đó từng trộm lợn của nông trường”.
May sao Tào Tháo không hề để ý tới việc người khác tô vẽ mình ra sao, càng không chú ý tới lời nói lung tung của người khác. Những việc định làm, Tào Tháo đã làm xong, đã có thể mỉm cười nơi chín suối.
Nhưng theo tôi, Tào Tháo “chí ít cũng là anh hùng” (lời Lỗ Tấn). Hơn nữa, còn là anh hùng vừa có phần đáng yêu vừa có phần gian trá.
Tào Tháo sinh năm 155, chết năm 200, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi. Sau khi Tào Tháo mất được chín tháng, Hiến đế nhường ngôi cho Tào Phi, Đông Hán diệt vong, một tháng sau, Tào Phi truy tôn Tào Tháo là thái tổ Vũ hoàng đế. Năm thứ hai, Lưu Bị lên ngôi đế ở Thành Đô. Năm 229, Tôn Quyền xưng đế ở Vũ Xương (nay là thị trấn Ngạc Châu, Hồ Bắc). Đến đây, ba nước ở thế chân vạc được hình thành, lịch sử Trung Quốc bước vào thời kỳ mới.
Trong đời Tào Tháo, điều đắc ý nhất về mặt chính trị là “ép thiên tử để lệnh chư hầu”, điều thành công nhất về mặt quân sự là trận chiến Quan Độ, để lại hậu quả nghiêm trọng nhất là do sơ suất để Lưu Bị thoát, trận chiến Xích Bích là trận thất bại thê thảm nhất, tài lược là điều được khẳng định nhất, nhân phẩm bị chỉ trích nhất, công, tội trong lịch sử của Tào Tháo là điều được tranh luận nhiều nhất. Thành tựu văn học không phải tranh luận nhiều.
Thơ từ hậu thế ngâm vịnh nhắc đến Tào Tháo không nhiều Cổ đại nổi tiếng nhất là thơ Đỗ Mục: “Cát vùi lưỡi kích còn trơ, giũa mài nhận dấu triều xưa rõ ràng. Gió đông ví phụ Chu lang, một nền Đồng Tước khoá xuân hai kiều”(2). Đương đại nổi tiếng nhất là từ của Mao Trạch Đông: “Chuyện cũ ngàn năm rồi, Nguỵ Vũ vung roi. Về đông Kiệt Thạch vẫn còn bài. Hiu hắt gió thu nay lại vậy, đã đổi thay đời”(3).
Chú thích


(1) Hệ thống đánh giá chính xác là đức tài gồm đủ. Và đức không là thái độ chính trị, tài cũng không phải là kiến thức khoa học. Liên quan tới rất nhiều vấn đề, tạm thời không bàn tới. Hãy xem chương “Ưng chính” ở phần sau (Tác giả).
(2) Tương Như dịch (ND).
(3) Phan Văn Các dịch (ND).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyThu Sep 11, 2014 2:58 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
VÕ TẮC THIÊN
- 1 -
Người đàn bà này không tầm thường
Kỳ thực, Võ Tắc Thiên không phải tên là “Võ Tắc Thiên”. Bà họ Võ, tên Chiếu. Chiếu là chữ bà phát minh ra chỉ để đặt tên cho mình.
Ngay cả cái tên này cũng chẳng để làm gì. Vì khi bà có tư cách phát minh ra chữ quái gở đó để đặt tên cho mình, đã chẳng có ai dám gọi thẳng tên đó. Bản thân bà cũng không dùng tới nó. Khi đó, bà đã tự xưng là “trẫm”. Ngay cả cách xưng hô “Võ Tắc Thiên”, bà và những người khác cũng không dùng tới. Hai chữ “Tắc Thiên” cũng do người con là Trung Tông Lý Hiển đặt tôn hiệu cho bà khi bà buộc phải dời sang ở cung Thượng Dương, mọi người luôn xưng là “Tắc Thiên Đại thánh hoàng đế”. Trước khi lâm chung, Võ Tắc Thiên để lại di chúc, lệnh bỏ đế hiệu, đổi xưng là hoàng hậu. Và, “Tắc Thiên Đại thánh hoàng hậu”, trở thành thuỵ hiệu của bà. Có hai cách nói để chí rõ vì sao lại gọi là Tắc Thiên.
1. Nói, bà lên ngôi hoàng đế tại “Tắc Thiên môn” ở mặt nam cửa chính, cung Lạc Dương;
2. Là điển tích trong sách “Luận ngữ”: “Chỉ có trời là lớn, chỉ có đế Nghiêu bắt chước được trời”. Vì vậy “Tắc Thiên” là hiệu, không phải là tên của bà.
Nhưng ngay cả cách xưng hô đó cũng được các hoàng đế sau này sứa đỗi mấy lần, như Thiên hậu, Đại thánh Thiên hậu, Thánh đế Thiên hậu… Sau chín năm lên ngôi (năm 721), tác giả Ngô Căng biên tập cuốn “Tắc Thiên thực lục” bắt đầu lấy hai chữ Tắc Thiên để gọi người đàn bà vừa là hoàng hậu vừa là hoàng đế này, và từ đó, Võ Tắc Thiên trở thành cách xưng hô phổ biến nhất.
Đương nhiên, có thể là như vậy. Cách thức xưng hô của người xưa rất phức tạp. Chỉ riêng việc tỏ lòng tôn kính hay khách sáo đã có đến mấy loại: Xưng theo tự, như Lý Thái Bạch (Lý Bạch), xưng theo hiệu, như Tô Đông Pha (Tô Thức); xưng theo quân hầu, như Đỗ Công bộ (Đỗ Phủ); xưng theo quận vọng, như Hàn Xương Lê (Hàn Dũ), xưng theo thứ tự, như Bạch Nhị Thập Nhị (Bạch Cư Dị). Nếu là hoàng đế hoặc hoàng hậu, thì ích hiệu (như Hán Vũ đế), miếu hiệu (như Đường Thái Tông, danh hiệu (như Từ Hy), niên hiệu (như Ưng Chính).. còn có tôn hiệu, nhưng ít dùng. Còn như trước thuỵ hiệu có thêm họ thì chỉ các quan mới có, như Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi); còn vua thì xưng hô theo thuỵ hiệu hoặc niên hiệu, đằng trước có thêm tên triều đại, như Đường Minh Hoàng (thụỵ hiệu), Tông Thái Tổ (miếu hiệu), còn vua mà trước thuỵ hiệu có thêm họ, chỉ có một mình Võ Tắc Thiên.
Riêng thân phận Võ Tắc Thiên hơi khác thường. Nói bà là hoàng hậu, nhưng bà từng là hoàng đế; nói bà là hoàng đế, nhưng bà lại không có miếu hiệu. Vả lại, cái vương triều Võ Chu của bà đã chẳng ăn thua gì, huống chi bà lại là đàn bà.
Đàn bà thì không thể là hoàng đế, đó là quy chế. Vì vậy, Võ Tắc Thiên lẽ ra không nên làm hoàng đế, trừ phi bà là con Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Có điều, dù là con Lý Thế Dân, cũng chưa hẳn nên làm hoàng đế. Lý Thế Dân có tất cả mười bốn người con, trong số đó, con cả là Thường Sơn vương Lý Thừa Càn, con thứ tư là Nguỵ vương Lý Thái, con thứ chín là Tấn vương Lý Trị, đều là con của hoàng hậu Trưởng Tôn. Trưởng Tôn hoàng hậu là chính cung, đối xử với mọi người rất hiền đức, uy vọng trong các triều thần rất cao, được Lý Thế Dân vô cùng kính trọng. Chọn người làm hoàng đế, đương nhiên, phải chọn trong số các con của bà. Thừa Càn là đích tử, lại là trưởng, bất luận là “lập tử lấy đích” hoặc “lập đích lấy trưởng”, về tình hay về lý, Thừa Càn phải là thái tử. Nhưng tiếc là vị thái tử này, hình tượng không đẹp (có tật ở chân), biểu hiện cũng không hay (luôn ầm ĩ), cuối cùng, còn nghe lời xúi giục của Hán vương Lý Nguyên Xương, và tể tướng Hầu Quân Tập, mưu phản, sự việc bại lộ bị phế làm thứ dân, đẩy ra Kiềm Châu (nay là huyện Bành Thuỷ, Tứ Xuyên), giấc mộng hoàng đế đã tan biến.
Lý Thế Dân có phần ưng đồng ý hoàng tử thứ tư Nguỵ vương Lý Thái. Lý Thái kém Thùa Càn một tuổi, tướng mạo khôi ngô, thông minh hiếu học, nhanh nhẹn đa tài, theo ý Thái Tông, Lý Thái nhất định sẽ trở thành vị vua anh minh, đức độ.
Nhưng các trọng thần trong triều đều phản đối. Nhất là Trưởng Tôn Vô Kỵ (anh của cố Trưởng Tôn hoàng hậu) và Chử Toại Lương (gián nghị đại phu) phản đối kịch liệt nhất. Họ muốn lập hoàng tử thứ chín Lý Trị. Lúc đó, Lý Trị hai mươi hai tuổi, được coi là trẻ tuổi, lương thiện, nhưng lại quá mềm yếu, không mấy tác dụng. Chính vì Lý Trị đôn hậu, yếu đuối, không có một chút sở trường nào, nên Trưởng Tôn Vô Kỵ và mấy người khác lại vừa lòng. Có thể họ đã quá mệt mỏi, sau bao năm tháng hầu hạ “vị chúa anh minh” Lý Thế Dân, không muốn phải tiếp tục hầu hạ “vị chúa hùng tài” khác. Nếu Lý Thái lại kế vị, thiên tử nào đình thần ấy, chưa biết chừng họ còn bị lôi ra đùa giỡn. Còn nếu là Lý Trị? Rất dễ khống chế. Trưởng Tôn Vô Kỵ có thể tiếp tục là ngoại thích nắm quyền, bọn Chủ Toại Lương, Lý Thế Tích vẫn là nguyên lão, vua tôi cùng trị, thiên hạ thái bình.
Họ tính toán rất khéo, chỉ là chưa tính đến Võ Tắc Thiên. Đương nhiên họ không nghĩ tới, bên cạnh Lý Trị lại xuất hiện một người đàn bà, hệt như rắn, là Võ Tắc Thiên. Đương nhiên, họ cũng không nghĩ ra, Lý Trị tuy dễ khống chế, nhưng không phải họ khống chế mà là bà vợ khống chế. Và khi họ dìu Lý Trị lên ngôi cao, Lý Trị đã nghe lời bà vợ trừng trị lại họ.
Về phần Lý Thái, cũng nhiều lần phạm sai lầm, trước hết, cậy được sủng ái sinh kiêu căng, không coi ai ra gì. Bên cạnh thì sao? Luôn có một lũ tiểu nhân a dua nịnh bợ. Điều đó khiến các lão thần trong triều không chỉ xem thường mà còn thấy lo ngại. Nhưng điều quan trọng hơn là, Thái rất bực bội với việc kế vị và một lần tự cho mình là thông minh, đã nói với Lý Thế Dân: “Nhi thần chỉ có một con, ngày hết tuổi thọ, thần sẽ giết hắn để nhường vị cho Tấn vương”. Nói như vậy là dối trá, chỉ có thể lừa được quỷ. Chử Toại Lương nói ngay trước mặt Lý Thế Dân: “Tuyệt đối không được. Dưới gầm trời này làm gì có chuyện giết con yêu, nhường ngôi hoàng đế cho em trai?”. Đúng là có chuyện Tống Thái Tổ nhường ngôi cho em trai là Triệu Quang Nghĩa, nhưng Thái Tổ không giết con, có thể chính Thái Tổ đã bị Nghĩa mưu sát (điều này còn là nghi án trong lịch sử). Vì vậy trước lúc lâm chung, Triệu Quang Nghĩa đã định hoàn trả hoàng vị cho con Triệu Khuông Dận, mưu sĩ của Nghĩa là Triệu Tấn đã nói: “Cái gì đã sai thì đừng sai tiếp”. Thấy rõ, lời thề của Lý Thái không thể tin được, tuy lúc đó chưa có chuyện của Triệu Quang Nghĩa.
Lý Thái còn phạm sai lầm, tự cho mình là thông minh. Một lần Lý Thái chạy đến nói với Lý Trị: “Đệ thường có quan hệ rất tốt với Lý Nguyên Xương, lúc này hắn vừa bị chặt đầu, đệ không sợ sao?”. Lý Trị vốn là kẻ vô tích sự, vừa biết tin đã khổ sở sầu não. Lý Thái muốn cảnh cáo Lý Trị: “Đừng có tranh giành với ta, chẳng có gì hay ho đâu”. Nào ngờ, những lời đó đã cảnh tỉnh Lý Thế Dân: Lập Lý Thái thì Thừa Càn và Lý Trị sẽ gặp nguy hiểm. Chỉ có lập Lý Trị thì cả ba đứa mới được bình an, vô sự.
Ngay lúc đó, Lý Thái bị đuổi ra huyện Quân (huyện Quân, Hồ Bắc nay). Lý Trị được lập làm thái tử, rồi kế thừa hoàng vị, là Cao Tông hoàng đế. Lịch sử đã chứng minh, do nguyên nhân hai bên quần thần không hoà hợp, nên Lý Thế Dân và bọn họ đã phạm vào sai lầm không thể cứu vãn nổi. Đại Đường vương triều suýt nữa mất cả giang sơn, còn bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương đã mất mạng.
Lý Trị yếu đuối vô năng đã nhặt được chiếc cặp da, đúng là bánh nướng có nhân, từ trên trời rơi xuống.
Vận khí của Võ Tắc Thiên đã tới. Tôi tin rằng, lúc này bà sẽ cảm thấy hạnh phúc vì là đàn bà. Vì đàn bà tuy không thể là hoàng đế, nhưng có thể là hoàng hậu!
Võ Tắc Thiên vốn cũng không thể là hoàng hậu.
Thoạt đầu, Võ Tắc Thiên không phải là vợ của Lý Trị mà là tiểu thiếp của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, danh phận là tài nhân. Nhà Đường theo chế độ nhà Tuỳ, ngoài hoàng hậu ra, tiểu thiếp của hoàng đế là phi nhất phẩm đến thái nữ bát phẩm, tổng cộng là tám phẩm cấp. Tài nhân chính chỉ được coi hàng trung, muốn thăng làm hoàng hậu, có khác gì một bước muốn lên tận trời. Huống chi Võ Tắc Thiên chưa phải là người được sủng ái nhiều và ngày tận thế của Lý Thế Dân đã sắp tới. Nhưng Võ Tắc Thiên là người đàn bà có nhiều tâm kế, đã lặng lẽ chăng chiếc lưới bắt nhện của mình quanh người thái tử. Võ Tắc Thiên thầm nghĩ: Vị hoàng đế trẻ tuổi tương lai này sẽ giúp được mình nhiều đây, đáng để cho mình phải hiến thân. Sau này Lý Trị có nói lại trong chiếu thư, lúc mình là thái tử, vì được phụ hoàng sủng ái, nên “thường được theo hầu”, nhưng đối với phi tần của phụ hoàng thì “chưa hề để mắt tới”. Tiên đế biết chuyện đã vô cùng phấn chấn tán thưởng, “bèn ban Võ thị cho trẫm”. Câu nói nửa thật nửa giả. “Thường được theo hầu” là thật, “chưa hề để mắt tới” là giả. Giữa thái tử và tài nhân, không chỉ có liếc mắt đưa tình, e là từ lâu đã mấy lần mây mưa, “bèn ban Võ Thị cho trẫm” là lời dối trá, thái tử tự tạo ra. Nếu đã được tặng cho thái tử, vì sao sau khi Thái Tông mất, Võ Tắc Thiên “không nói hết sự tình” để đường hoàng làm thiếp của Lý Trị, lại cùng các phi tần chưa sinh nở khác của Thái Tông vào chùa làm ni cô?
Võ Tắc Thiên không muốn kết thúc cuộc đời này trước đèn xanh cổ Phật. Bà muốn là hoàng hậu, không là ni cô. Huống hồ bà đã bỏ vốn lên người vị hoàng đế trẻ tuổi, không thể có chi mà không thu hoạch, có điều, lạc đà muốn vào lều thì cái miệng phải vào trước. Võ Tác Thiên muốn làm việc thứ nhất, thì nhanh chóng phải trở về hậu cung.
Lúc đó, một người đàn bà xuẩn ngốc đã giúp Võ Tắc Thiên. Người đàn bà đó là Vương hoàng hậu. Vương hoàng hậu là vợ đầu của Lý Trị, xuất thân danh môn và đó là người vợ hiền mà Thái Tông hoàng đế đã chọn cho Lý Trị. Hoàng hậu đối nhân xử thế đúng mực, hiền thục, không có vấn đề gì, riêng về nhan sắc thì kém phần hấp dẫn. Kỳ thực, đó đều là ảnh hưởng của quan niệm “nữ nhi vô tài nhưng hữu đức”, là “bệnh chung” của chính thê trong thời cổ Trung Quốc. Vì vậy tâm tư của Lý Trị để hết lên người đàn bà có tên là Tiêu Thục phi. Vương hoàng hậu vô cùng ghen tức. Thêm nữa, Tiêu phi có con, còn mình thì vô sinh, nên hoàng hậu luôn cảm thấy ngôi vị hoàng hậu của mình bị đe doạ. Thế là Vương hoàng hậu đem hết trí óc và sự nhanh nhạy của người đàn bà xuẩn ngốc, nghĩ ra một ý ngốc nghếch mà tự mình cho là hay, đưa ni cô mà Lý Trị đã lén lút đến thăm mấy lần vào cung, để ni cô và con tiện nhân Tiêu Thục phi cắn xé nhau, còn mình “toạ sơn quan hổ đấu”.
Được Vương hoàng hậu giúp sức, Lý Trị và Võ Tắc Thiên nhanh chóng được toại nguyện. Võ Tắc Thiên cầm chiếc vé thuyền cũ, bước vào hậu cung - chiếc du thuyền hào hoa tráng lệ. Bà cảm thấy vận may của mình đã đến. Lý Trị cũng rất vui, vì cuối cùng đã lại có Võ Tắc Thiên và không ngờ, chính mình như con ruồi đã mắc vào lưới bắt nhện tuy lưới thật mềm mại và ấm áp, còn có mùi thơm nữa.
Vương hoàng hậu đành phải tự mình nuốt quả đắng. Ý của hoàng hậu quả không tồi, tiếc là đã tin sai đối tượng. Võ Tắc Thiên không phải hổ già ngốc nghếch, chỉ biết làm, mà là một con rắn, một con rắn có thể ẩn mình, mai phục rất lâu trong bãi cỏ chỉ cần cắn ai đó một miếng, máu sẽ chảy, người đó sẽ chết vì chất độc. Huống chi, lần này về lại hậu cung, Võ Tắc Thiên sớm đã không thoả mãn với danh hiệu tài nhân hoặc Thục phi gì gì đó. Võ Tắc Thiên muốn xông thẳng tới ngôi vị hoàng hậu. Thật đúng là “đuổi hổ cửa trước, rước sói cửa sau”. Dù lúc vừa vào cung, Võ Tắc Thiên dịu dàng, ngoan ngoãn trước mặt Vương hoàng hậu, như một con mèo và dù Tiêu Thục phi “ba ngàn sủng ái đều vào thân” đã thất sủng, khiến vương hoàng hậu như trút được gánh nặng, nhưng hoàng hậu cũng nhanh chóng phát hiện, âm mưu quỷ kế thấp kém của mình chẳng khác gì kết quả và tính chất việc trước đây Hà Tiến triệu Đổng Trác vào kinh: Đều là tự dẫn sói vào nhà.
Thế là hai người đàn bà, trước đây từng là đối thủ, quyết định liên hợp lại, đối phó với Võ Tắc Thiên - kẻ thù hết sức nguy hiểm. Nhưng tất cả bằng không. Lý Trị, con dê đuôi to, quyết tâm lao vào vòng tay con sói, có đến mười con trâu kéo cũng không ra.
Lúc này trong cung lại xảy ra một kỳ án: Lý Trị đang vui mừng phấn khởi nhìn công chúa nhỏ mà Võ Tắc Thiên vừa mới sinh, phát hiện thấy tiểu công chúa đã chết trong tã bọc. Được biết, chỉ có Vương hoàng hậu vừa qua đây, còn đùa vui với đứa bé và xung quanh không có ai. Vương hoàng hậu, dù có trăm cái miệng, cũng không giải thích nổi. Thực ra, không có bất kỳ một chứng cứ nào có thể chứng minh hoàng hậu đã mưu giết công chúa nhỏ(1). Huống chi, Vương hoàng hậu đâu có gan làm điều đó, có ngốc đến mấy, cũng không chạy đến chỗ ở của Võ Tắc Thiên để giết người. Nhưng Lý Trị và Vương hoàng hậu - kẻ xuẩn ngốc, một người ấp úng, một người đang bực tức, một án oan hiếm hoi đã hình thành mơ hồ như vậy.
Lý Trị không sao hết được tức giận, muốn phế bỏ Vương hoàng hậu ngay, nhưng Võ Tắc Thiên đã ngăn lại, Võ Tắc Thiên hiểu rõ, phế bỏ Vương thị ngay lúc này, thì ngôi vị hoàng hậu cũng chưa đến lượt mình. Làm thế là thêm một đối thủ, chi bằng cứ để Vương hoàng hậu trên ngôi vị trong những ngày tàn tạ dai dẳng này. Như vậy vừa thể hiện mình là người khoan dung độ lượng, vừa không cho người khác cơ hội tốt. Võ Tắc Thiên cũng như Tào Tháo đều là thiên tài chính trị, hiểu mình xuất thân ti tiện, địa vị thấp kém, muốn thực hiện mục tiêu to lớn, cần phải có thời gian, cần phải nhẫn nại chờ đợi, biết nhìn, biết nén mình. Việc gì cũng thế, cứ nước lên là có kênh, sờ nắn nhiều thì dưa mất ngọt.
Nhưng Võ Tắc Thiên không mấy khi được nhàn rỗi. Võ Tắc Thiên hiểu rõ, một người đàn bà như mình ở hậu cung, dễ bị khinh rẻ, dễ bị ghen ghét, vì vậy, việc cấp bách cần làm là gần gũi với mọi người, cải thiện hoàn cảnh chung quanh, để từ phe thiểu số biến thành phe đa số. Lúc này, điều kiện xuất thân ti tiện đã giúp Võ Tắc Thiên rất nhiều. Vương hoàng hậu xuất thân cao quý, hậu phương vững chắc, trách sao khỏi cao ngạo, không thèm để mắt tới bọn hầu hạ chung quanh. Mẹ của hoàng hậu, họ Liễu, là Nguỵ quốc phu nhân và người cậu là trung thư lệnh Liễu Thị, đều tự tôn, cao ngạo bừa bãi, người trong cung rất căm ghét. Võ Tắc Thiên vốn là tiểu nữ xuất thân ti tiện, nên hiểu rõ nhân tình thế thái, phải làm gì để lung lạc lòng người, nhất là lôi kéo lũ nô tài căm ghét Vương hoàng hậu và Tiêu Thục phi. Võ Tắc Thiên hiểu rõ: Không có gió làm gì có sóng, hiểu rõ nếu không có lũ tiểu nhân mà bọn Vương hoàng hậu xem thường kia thì hậu cung chẳng làm nên trò trống gì. Cuối cùng một hôm, “âm mưu” của Vương hoàng hậu tiết lộ: Hoàng hậu đã giả thần giả quỷ ở trong cung, hành thuật “Áp thăng” - một loại ma thuật nguyền rủa người khác bệnh cho đến chết. Đó chính là chủ đồng ý của mẹ Vương hoàng hậu, nhằm hãm hại Võ Tắc Thiên. Nhưng việc Võ Tắc Thiên mua chuộc bọn nô tì người hầu đã có tác dụng không nhỏ. Mấy hôm nay Cao Tông Hoàng đế Lý Trị vừa bị bệnh, cùng lúc này người ta tìm thấy một hình người bằng gỗ châm đầy kim trong tẩm thất của Vương hoàng hậu. Lần nữa, Vương hoàng hậu lại hết đường giải thích, sớm muộn gì thì hoàng hậu cũng bị phế truất.
Vì vậy, cần có một buổi thương lượng giữa Võ Tắc Thiên cùng các nguyên lão đại thần như Trưởng Tôn Vô Kỵ và Chử Toại Lương.
Vừa mới bắt tay, chưa được bao lâu, mấy người đàn ông đã bại trận.
Mở đầu, mấy vị lão thần của hai triều kia, có thể đã giản đơn hoá sự việc và cũng coi thường đối thủ. Họ cũng không ngờ “tiện nhân” Võ Tắc Thiên lại có vị trí quan trọng đến nhường ấy trong long Lý Trị, và không ngờ Lý Trị - một đứa con nít bây giờ lại ngang bướng như một con lừa. Họ chưa có sự chuẩn bị chu đáo đã vội vã ra trận, họ cho rằng phản đối là Lý Trị và Võ Tắc Thiên phải lui ngay. Cho nên, họ phản đối có phần mạnh mẽ và thực tế dẫn tới vừa mới mở đầu, sự việc đã trở nên rắc rối.
Chủ Toại Lương là người xung trận trước. Chử Toại Lương là nguyên lão triều trước, là cố mệnh đại thần, phản đối phế Vương lập Võ, lập trường kiên định, khí thế mạnh mẽ, nhưng cách làm thì chưa thật hay. Có hai lý do để phản đối: 1. Vương hoàng hậu xuất thân danh môn, được tiên đế tuyển chọn và chưa có sai lầm gì lớn, nên không thể phế. Nếu muốn lập một hoàng hậu khác, phải chọn con nhà danh môn vọng tộc trong thiên hạ. Võ Tắc Thiên từng hầu hạ tiên đế, tiếng tăm quả xấu, không thể lập. Chiêu cuối cùng là đặt ngọc hốt xuống đất, nói: Bệ hạ ban cho thần vật này, nay xin trả lại bệ hạ, mong bệ hạ cho thần được cáo lão về quê!
Phát súng đầu tiên đã bắn hỏng. Không trúng mục tiêu là Võ Tắc Thiên, tất cả đạn pháo đều rơi vào người Lý Trị. Mọi việc xảy ra đều vì Lý Trị. Chính Lý Trị muốn thay đổi vợ, không phải ai khác, cũng không phải Võ Tắc Thiên ngang nhiên muốn làm hoàng hậu. Nhưng không ai được phản đối Lý Trị, vì Lý Trị là hoàng đế vương triều Đại Đường. Phản đối Lý Trị cũng tức là phản đối Đại Đường, chí ít thì, công khai phản đối hoàng đế, có nghĩa là hoàng đế có thù với mình. Chử Toại Lương vừa xuất hiện đã chỉ thẳng đầu mâu vào Lý Trị, như vậy là tự chuốc lấy điều không hay.
Thực ra, trong cuộc đấu tranh phế lập này, không chỉ không thể phản đối Lý Trị, mà phải tranh thủ Lý Trị. Vì người cần thay, dù bạn coi họ là vợ Lý Trị cũng được, coi họ là hoàng hậu Đại Đường cũng được, thay hay không thay, cuối cùng chỉ cần người chồng, lại là Lý Trị hoàng đế nói là xong. Nên chỉ có thể thuyết phục Lý Trị, không thể công kích Lý Trị. Nhưng những điều Toại Lương nói, theo Lý Trị, câu nào cũng công kích, từng chữ từng chữ nghe không xuôi. Mở đầu Toại Lương nói, tiên đế đã chọn Vương hoàng hậu nên không thể phế, như vậy là đem tiên đế ra để áp chế Lỵ Trị, muốn nói, Lý Trị không có quyền chọn vợ. Lý Trị cũng hiểu: Mình không bằng tiên đế, nhưng lâu nay mình vẫn là hoàng đế, vậy, vì sao lại không có quyền đổi vợ? Một lão nông chỉ thu hoạch mấy đấu thóc cũng muốn đổi vợ, huống chi đây là thiên tử? Lời nói tuy thô lỗ, lung tung, đã dám so sánh một lão nông dưới quê với thiên tử, nhưng nếu Lý Trị không đổi được hoàng hậu, coi như không bằng một lão nông dưới quê? Thực không thể chịu nổi!
Chủ Toại Lương lại nói, lúc tiên đế lâm chung, tùng kéo tay bệ hạ, nói với thần: “Vợ đẹp con khôn của trẫm, nay giao cả cho khanh”. Lời tiên đế còn văng vẳng bên tai, hẳn bệ hạ vẫn không quên? Như vậy, không chỉ đem tiên đế ra áp chế hoàng đế, mà còn cậy vào tuổi tác, để coi hoàng đế như một đứa trẻ. Lý Trị, đang lúc huyết khí sục sôi (hai mươi tám tuổi), đương lúc say mê làm hoàng đế (đã sáu năm), chịu sao nổi? Thoạt nghe đã thấy tức giận. Đúng, Lý Trị có phần yếu đuối nhu nhược, nhưng không phải là không biết tức giận. Trên thực tế, người nhu nhược luôn quật cường, như người cứng rắn lại luôn cởi mở. Dù là người yếu đuối, nhưng một khi đã là hoàng đế, nắm quyền sinh sát trong tay, cũng biến thành người nóng nảy. Hơn nữa, chính vì Lý Trị luôn bị coi là nhu nhược, luôn sợ bị coi là vô dụng nên đang; cần có một vài con gà để giết, tỏ ra mình không dễ bị coi thường. Lần này Chử Toại Lương đã va vào miệng súng.
Chử Toại Lương còn giở chuyện cũ ra nói, nào là Võ Tắc Thiên từng đã hầu hạ tiên đế, thiên hạ tất cả đều biết, nay bệ hạ lập Võ thị làm hậu, sẽ nói với người đời thế nào đây, sẽ nói với lịch sử thế nào đây. Nói vậy, như bảo Võ Tắc Thiên là chiếc giầy rách, là bẩn thỉu, ngang như bảo Lý Trị là loạn luân, là vô liêm sỉ. Thực tình thì không nên nói với người dân bình thường những lời như vậy, sao lại có thể nói với hoàng đế trước mặt mọi người. Ít ra, hoàng đế có thể hỏi lại một câu: Ông đến để thương lượng với trẫm hay để cãi vã với trẫm, vạch khuyết điểm của trẫm; nếu hỏi như vậy, e Chử Toại Lương sẽ chẳng còn gì để đối đáp.
Sự thực thì Chử Toại Lương đến gây sự với Lý Trị, nếu không đã chẳng vứt mũ từ quan. Thân là triều thần, bỏ hết trước mặt mọi người, điều đó không chỉ muốn gây sự với hoàng đế, còn muốn công khai trơ mặt với hoàng đế. Chử Toại Lương đã thực sự hồ đồ. Cứ tưởng mình có chân lý và chính nghĩa thì có thể nói mạnh, nói lớn; ngờ đâu trong mắt Lý Trị, kẻ không thấy vua, không thấy cha, là kẻ làm loạn. Trong mắt anh đã không có hoàng đế, thì trong mắt hoàng đế cũng sẽ không có anh. Anh đã cắt mọi quan hệ với hoàng đế, hoàng đế cũng cắt mọi quan hệ với anh. Không tin, quần thần chúng ta cứ thử xem ai sẽ sợ ai? Thế rồi, bỗng dưng Lý Trị nổi giận, ra lệnh: Lôi ra ngoài! Võ Tắc Thiên ẩn mình trong trướng, cũng nổi giận và thốt thành lời: Đồ tạp chủng, sao không giết đi!
Do Chử Toại Lương làm việc một cách tuỳ tiện, toàn bộ ván cờ đã bị đảo lộn. Vấn đề lúc này là có nên phế Vương hoàng hậu không, có nên lập Võ Tắc Thiên không, có nên giết Chử Toại Lương không? Bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ chỉ còn kịp xin tha mạng cho Chử Toại Lương, chưa kịp đoái tới việc của Võ Chủ Toại Lương cũng được coi là một chính trị gia lão thành, không hiểu vì sao khi gặp việc lại mất bình tĩnh, không chịu suy nghĩ? Chử Toại Lương nhiều lần nhắc đến môn đệ, nhưng lại không hiểu, vương triều Đại Đường kể từ thời Lý Thế Dân, hận nhất là môn đệ(°). Chử Toại Lương nhiều lần nhắc đến tiên đế, nhưng lại không hiểu Lý Trị hận nhất là ai đó cứ so mình với tiên đế, hoặc đem tiên đế ra để áp chế mình. Hai năm sau, Chử Toại Lương vốn đã bị giáng chức, đầy ra Ái Châu đã dâng biểu trần tình, nói lại chuyện cũ, mà tủi phận mình, từng hàng từng chữ hết lời cầu xin. Chử Toại Lương nói, năm đó Thừa Càn và Lý Thái đều muốn là thái tử, nhưng thần và Vô Kỵ kiên quyết ủng hộ bệ hạ; sau khi tiên đế qua đời, cũng chính là thần và Vô Kỵ không từ nan phò tá bệ hạ. Nay thần ân hận vì đã xúc phạm thánh ý, những mong bệ hạ nhớ lại chuyện cũ để tha cho thần. Chử Toại Lương còn kể cả việc, Lý Trị bò trên lưng mình, khóc lóc lúc Thái Tông qua đời. Nhưng lúc bức thư tới tay Lý Trị thì như muối bỏ biển, bặt vô âm tín. Nghe đâu, Lý Trị chẳng buồn xem.
Năm 658, Lý Trị chết ở Ưu Đô, lúc sáu mươi ba tuổi.
Thực tế thì, Chử Toại Lương đã cực kỳ hồ đồ. Nên nhớ, trong thể chế chuyên chế, giữa các nhân vật chính trị, nhất giữa quân thần, không tồn tại cái gọi là tình cảm và hữu nghị. Nên đối phương là anh hùng, là hổ, là báo, có thể dùng lý tính để thức tỉnh, dùng tình cảm để lay động. Tiếc rằng Lý Trị không phải thế. Đối với Lý Trị - một chú dê đuôi to, nhắc lại chuyện cũ, được coi là vạch khuyết điểm, chỉ có thể làm người ta từ xấu hổ thành giận dữ? Tôi tin rằng, nếu đọc thư của Chử Toại Lương thì nhất định Lý Trị sẽ khịt khịt mũi và nói: Vứt ngay đi, mặc xác lão!
Còn chính trị gia khác là Lý Thế Tích lại không ngu ngốc như vậy.
Lúc Lý Trị triệu tập hội nghị ngự tiền để bàn về việc phế Vương hoàng hậu, lập Võ Tắc Thiên, Lý Thế Tích cáo bệnh, xin nghỉ? Sớm không ốm, muộn không ốm, lại ốm vào đúng lúc này, Lý Thế Tích ốm thật khéo.
Đúng là Lý Thế Tích có tâm bệnh.
Lý Thế Tích là nguyên huân khai quốc vương triều Đại Đường, có quan hệ rất tốt với Lý Thế Dân. Ông vốn họ Từ, nhờ có công lao cái thế nên được Thái Tông ban họ Lý và để không trùng tên với Lý Thế Dân, nên thường gọi là Lý Tích. Quan hệ giữa Lý Thế Tích và Lý Thế Dân, nghe nói là ngoài tuy quân thần, trong thực “cốt nhục”, là “anh em keo sơn”. Lý Thế Tích ốm, nghe nói có thể chữa bằng tro râu, Lý Thế Dân liền cắt râu của mình, đốt thành tro, làm thuốc cho Lý Thế Tích. Một hôm, Lý Thế Dân nói với Lý Thế Tích: Ta sẽ trao con cái lại cho ngươi. Ngươi không phụ Lý Mật, cũng sẽ không phụ ta. Lý Thế Tích cảm động đến mức cắn chảy máu các ngón tay. Nhưng lúc lập Lý Trị làm thái tử, tự nhiên Lý Thế Dân đã giáng Lý Thế Tích ra xa ngàn dặm, ra vùng Điệp Châu, sơn cùng thuỷ tận (nay là huyện Điệt Bộ, Cam Túc), không hề trao con cho Lý Thế Tích. Lý Thế Dân nói với Lý Trị: Tài năng trí tuệ của Lý Thế Tích là tuyệt vời, nhưng ngươi lại chưa hề có ân đức với hắn, chắc gì hắn đã trung thành. Lúc này trẫm đã đẩy ra nơi hoang vu hẻo lánh nhất. Nếu hắn chịu lên đường ngay thì sau này ngươi có thể dùng hắn; còn như hắn cứ nhìn ngó do dự, thì giết luôn đi!
Lý Thế Tích không hề nhìn ngó do dự. Sau khi nhận lệnh, Lý Thế Tích không kịp về nhà, đã nhanh chóng đến Điệp Châu ngay, cho nên, sau khi lên ngôi, Lý Trị triệu Lý Thế Tích về nhận trọng trách.
Nhưng Lý Thế Tích đã hoàn toàn thờ ơ, lạnh nhạt. Năm mười bảy tuổi tham gia Ngoã Cương quân, sau này lại hầu hạ ba triều thái tử Lý Uyên, Lý Thế Dân, Lý Trị, mười mấy năm sống trong quân ngũ, mười mấy năm gió mưa chính trị, Lý Thế Tích được tôi luyện thành người hiểu rõ đến chân tơ kẽ tóc nhân tình thế sự, còn đột nhiên bị giáng chức sau khi Thái Tông băng hà, những ký ức đó vẫn còn mới nguyên! Lần đó nếu không thấu hiểu tầm tư của Lý Thế Dân thì e cái đầu này đã lìa khỏi cổ. Nghĩ lại đã thấy lạnh gáy, còn sợ cho sau này nữa, không lạnh mà run. Người bất nhân đừng trách ta bất nghĩa. Dựa vào cái gì để ta còn phải tham dự vào việc tranh giành giữa cậu cháu họ Lý các ngươi?
Lại dựa vào cái gì nữa để ta phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng, vạch mưu tìm kế cho nhà họ Lý các người? Lúc này, Lý Thế Tích càng xem càng hiểu mọi thứ trong chính trị, trong nhân sinh, nơi quan trường. Lý Thế Tích sẽ không phải mất mạng vì phạm phải những điều vớ vẩn như kỷ cương triều đình, hoặc đại nghĩa trong quân thần, cũng không phạm phải những điều mà bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương dương dương tự đắc, cho mình là đúng. Vì vậy, Lý Thế Tích quyết giữ một thái độ bàng quan hơn người. Lúc Lý Trị hỏi ý kiến của Lý Thế Tích, ông này chẳng mặn mà gì, từ từ trả lời một câu: Đây là việc trong nhà bệ hạ, cớ chi phải hỏi người ngoài?
Một thái độ không ra thái độ của Lý Thế Tích đã cổ vũ lớn cho Lý Trị. Đúng vậy, trẫm là hoàng đế. Việc nhà của trẫm liên quan gì đến lũ các người? Thái độ đó là một cách biến tướng cho Lý Trị hay: Không phải tất cả các vị nguyên lão trọng thần đều đứng về một phía, phản đối phế Vương lập Võ. Và như vậy, Lý Trị đã thấy quyết tâm và có lòng tin. Năm 655, vào ngày mười ba tháng mười, năm thứ sáu Đường Cao Tông Vĩnh Huy, Lý Trị đã hạ chiếu phế Vương hoàng hậu, Tiêu Thục phi. Ngày mười chín, trăm quan xin lập Trung cung, Lý Trị có chiếu lập Chiêu Nghi Võ thị làm hoàng hậu. Cuối cùng Võ Tắc Thiên đã đạt được mục đích.
Võ Tắc Thiên đúng là Võ Tắc Thiên! Vào ngày thứ ba Lý Trị có chiếu lập Võ làm hậu, tức là ngày hai mươi mốt tháng mười, Võ Tắc Thiên dâng biểu xin ban thưởng cho Hàn Viện, Lai Tế. Hàn Viện và Lai Tế đều là cột trụ của phái phản Võ. Trước lúc phế Vương lập Võ, Lý Trị từng đề xuất phong Võ Tắc Thiên là “Thần phi”. Chế độ nhà Đường, thiên tử bốn phi là Quý, Thục, Đức, Hiền. Võ Tắc Thiên yêu cầu thiết lập Thần phi trên cả bốn phi kia. Thần tức là Bắc Thần, tức là sao Bắc Cực, tượng trưng cho đế vương. Thần cực chỉ quân vị, thần cư chỉ nơi ở của đế vương, cũng là chỉ quân vị. Võ Tắc Thiên muốn là Thần phi, đồng ý tứ rất rõ, tức là ngôi vị gần với hoàng hậu. Trong lúc chưa thể là hoàng hậu, Võ Tắc Thiên sử dụng kế đỡ va chạm hơn. Nhưng Hàn Viện và Lai Tế đã ra sức phản đối phương án thoả hiệp đó, nói là chưa có tiền lệ. Trong vấn đề lập hoàng hậu, Hàn Viện và Lai Tế cũng là phái phản đối kiên định nhất, lời nói rất khó nghe, cả đến các chuyện Đát Kỷ và Bao Tự đều đã được lật tung lên. Lúc này Võ Tắc Thiên lại lấy cớ họ từng phản đối mình là Thần phi để ban thưởng, cả hai người đều đoán rằng “sói lông vàng đến chúc tết gà, không thể an tâm”.
Hàn Viện và Lai Tế đoán không nhầm. Võ Tắc Thiên không bao giờ tha cho kẻ thù của mình. Sau hai mươi sáu ngày lên làm hoàng hậu, Vương hoàng hậu, Tiêu Thục phi được ban cho tự tận. Sau hai năm, Hàn Viện và Lai Tế bị giáng chức. Bốn năm sau, Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng bị mưu sát, với phương pháp Lưu Bang và Tào Tháo từng dùng: Vu là mưu phản. Hàn Viện có liên can đến vụ án này, có điều lúc này Hàn Viện đã chết, Võ Tắc Thiên không chặt được đầu hắn. Trường hợp của Lai Tế có khá hơn: Lai Tế đã tử trận trong lúc chiến đấu với Đột Quyết, Võ Tắc Thiên không còn cơ hội vu cho Lai Tế mưu phản.
Đương nhiên, lúc này Võ Tắc Thiên cũng không cần chú ý tới việc loại bỏ bọn họ. Võ Tắc Thiên đang bận với những lễ đăng quang. Mùng một tháng mười một, cử hành long trọng nghi thức sách phong hoàng hậu. Lễ sứ Anh Quốc công Lý Thế Tích cung kính dâng bảo tỉ của hoàng hậu lên Võ Tắc Thiên. Tiếp đến, tân hoàng hậu lộng lẫỵ bước tới Túc Nghi môn, tiếp nhận lời chúc mừng của trăm quan cùng quân chủ Tứ Di. Nghi thức triều bái hoàng hậu là do Võ Tắc Thiên mới định ra. Võ Tắc Thiên, con gái một thương lái gỗ, một tì thiếp thấp hèn trong cung điện Thái Tông, một ni cô đơn côi trong chùa Cảm Nghiệp, cuối cùng đã thực hiện được nguyện vọng của mình, đường đường là quốc mẫu vương triều Đại Đường. Lúc đó, bà ba mươi hai tuổi.
Lúc này, Võ Tắc Thiên là người đàn bà đã đạt tới đỉnh cao. Võ Tắc Thiên, tinh lực dồi dào, tài trí hơn người, lại không cam chịu sự tĩnh mịch, chỉ có thể làm những việc của đàn ông.
Chú thích
________________________________________
(1) Có nhiều khả năng làm công chúa nhỏ chết. Có thể do bệnh cấp tính đến đột ngột hoặc hoàng hậu chưa có kinh nghiệm vỗ về đứa bé, chăn đắp quá chặt mà chết ngạt, cũng có thể là Võ Tắc Thiên tự bóp chết con mình. Tạm thời không bàn (Tác giả).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyWed Sep 17, 2014 2:17 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
VÕ TẮC THIÊN
- 2 -
Chú dê đuôi to
Để Võ Tắc Thiên trở thành đàn ông, chính là người đàn ông của bà - Đường Cao Tông Lý Trị.
Sử liệu chứng minh, Đường Thái Tông Lý Thế Dân luôn không an tâm với Lý Trị - bảo bối của mình. Năm Trinh Quán thứ mười bảy (năm 644). Thái Tông tiếp kiến quần thần ở điện Lưỡng Nghi, đã hỏi trước mặt Lý Trị: Phẩm hạnh của thái tử, thiên hạ đều biết cả chứ? Trưởng Tôn Vô Kỵ trả lời: Tuy thái tử chưa xuất cung, nhưng người thiên hạ không ai là không ngưỡng vọng thánh đức. Thái Tông lại xúc động nói, trăm họ đều nghĩ thế này: “Sinh con như sói, còn sợ là dê”, Trị nhi ngay từ bé đã rất khoan hậu! Trưởng Tôn Vộ Kỵ lại nói: Bệ hạ kiêu dũng, là vua sáng nghiệp; thái tử nhân từ, đủ đức để giữ. Tính cách của bệ hạ và thái tử có khác nhau, đó chính là trời ban, là phúc của lê dân!
Về mặt lý luận, lời nói của Trưởng Tôn Vô Kỵ là rất hay. Có thể nhanh chóng lấy được thiên hạ, nhưng không thể trị được thiên hạ. Vua mở nước phải là hổ, vua giữ thành có thể là dê. Điều mà Trưởng Tôn Vô Kỵ không nghĩ tới, dê không chỉ có ăn cỏ. Nếu là hoàng đế, cũng ăn thịt người. Lý Thế Dân lo lắng không phải là không có lý. Có điều, Lý Thế Dân cũng không ngờ, Lý Trị không chỉ nhu nhược, mà còn “hiếu nội”, thích nghe lời đàn bà.
Tất cả đều cho Võ Tắc Thiên cơ hội rất tốt.
Lý Thế Dân quan tâm đặc biệt việc giáo dục Lý Trị. Nhìn Lý Trị ăn cơm, liền nói: Ngươi phải biết người làm ruộng vất vả, mới có cơm ăn. Nhìn thấy Lý Trị cưỡi ngựa liền nói: Nếu hắn biết không để ngựa quá mệt, thì mới có ngựa để cưỡi. Thấy Lý Trị ngồi trên thuyền, liền nói: Nước có thể nâng thuyền, cũng có thể dìm thuyền. Dân là nước, vua là thuyền. Thấy Lý Trị đứng dưới gốc cây, liền nói: Cây có dây buộc mới thẳng, nguyên thủ biết nghe ý kiến mới thánh minh. Có thể coi là sự chăm sóc vất vả. Lý Thế Dân còn viết cuốn “Đế phạm” mong dạy Lý Trị làm hoàng đế như thế nào.
Lý Trị biểu hiện cũng không tồi. Vừa lên làm hoàng đế, đã rất chăm chỉ. Một hôm Lý Trị đi săn, đúng lúc trời mưa. Lý Trị hỏi gián nghị đại phu Cốc Na Luật: Phải làm gì để áo mưa không thấm nước? Cốc Na Luật trả lời: Làm bằng ngói thì hết thấm. Lý Trị vỡ ra, hiểu đó là khuyên không nên mải mê săn bắn, bỏ bễ việc triều chính, Lý Trị rất vui, đã thưởng cho Cốc Na Luật. Đối với số người không đáng thưởng, Lý Trị không hề nể mặt, có thể nói là thưởng phạt phân minh. Người chú là Đằng vương Lý Nguyên Anh và anh là Tưởng vương Lý Vận thường cướp của dân, đã nhắc mấy lần mà không sửa. Lúc ban thưởng các vương, Lý Trị loại hai người đó ra, nói: Đằng thúc và Tưởng huynh đã biết kiếm tiền, không phải thưởng. Rồi cho họ hai xe dây gai, hãy lấy dây để xâu tiền. Hai vị đó xấu hổ đến đỏ mặt tía tai, không biết trốn đi đâu. Rõ ràng, Lý Trị không hôn dung, cũng không xuẩn.
Nhưng tâm bệnh của Lý Trị lại rất nặng.
Lý Trị vừa lên ngôi, đã gặp phải ba vấn đề khó khăn: 1. Làm gì để thoát khỏi ám ảnh của tiên đế. 2. Làm gì để không bị quần thần khống chế. 3. Làm gì để khắc phục những nhược điểm trong tính cách. Lý Trị phải suy nghĩ rất nhiều về ba vấn đề này. Mọi việc làm sau này đều xuất phát từ ba vấn đề trên.
Trong con mắt mọi người, Lý Trị thực may mắn khi nhận được cơ nghiệp từ tay Đường Thái Tông. Trinh Quán yên bình, thành tựu nổi bật, vua nhân thần trung, dân giàu nước mạnh. Lý Thế Dân vị minh chủ anh hùng cái thế, mọi việc đã thiết kế xong, suy nghĩ xong, sắp xếp xong, Lý Trị chỉ còn ngồi mà hưởng. Nhưng, sáng nghiệp khó, giữ nghiệp càng khó. Chỉ riêng Lý Trị mới hiểu được nỗi khổ của mình: Làm tốt là phúc trạch của tiên đế, làm không tốt là mình vô năng. Phụ hoàng thành công mỹ mãn, Lý Trị không sao thoát khỏi cái bóng của tiên đế.
Quân thần cũng là một mối phiền hà. Họ theo chân tiên đế nhiều năm, công lao cái thế, mưu lược hơn người, họ đến phò tá mình, nhưng ai biết được, họ đang suy nghĩ những gì? Dù là không mưu phản, nhưng họ luôn coi mình là trẻ con, thật đáng giận. Lý Trị thấy rõ, thậr khó chiều chuộng mấy ông già này.
Ngay như Trưởng Tôn Vô Kỵ, tên là Vô Kỵ, nhưng không hề kỵ bất cứ một thứ gì. Vì Lý Trị nhân từ yếu đuối, sợ khó giữ được xã tắc, Đường Thái Tông định lập Ngô vương Lý Khắc anh võ quả đoán làm thái tử, liền bị Trưởng Tôn Vô Kỵ kiên quyết phản đối. Vì Lý Khắc không phải là con của em gái ông ta - Trưởng Tôn hoàng hậu. Dương phi - mẹ đẻ của Lý Khắc là con gái Tuỳ Dạng đế. Kết quả, Lý Khắc không chỉ không là thái tử, mà còn bị Vô Kỵ mưu sát sau lúc Lý Trị đăng cơ, bằng biện pháp vu cáo mưu phản, cũng là biện pháp sau này Võ Tắc Thiên đối phó với Vô Kỵ. Lúc sắp chết, Lý Khắc đã lớn tiếng mắng chửi: Trưởng Tôn Vô Kỵ thao túng quyền uy, hãm hại trung lương, tổ tiên có linh, chẳng bao lâu nữa người sẽ bị diệt tộc. Sử gia cũng cho rằng, Trưởng Tôn Vô Kỵ vu cáo người mưu phản, về sau bị người vu cáo lại, được coi là báo ứng(1).
Cứ coi như bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ là vô kỵ, thì Lý Trị vẫn là hữu kỵ. Lý Thế Dân từng nghi kỵ Lý Thế Tích, nhưng vì sao Lý Trị lại không nghi kỵ Trưởng Tôn Vô Kỵ? Nền chính trị chuyên chế, kỵ nhất là quyền thần công cao hơn chủ, đuôi to khó đứt. Không giết được lũ dê đuôi to thì đêm đêm không sao chợp được mắt. Thế nào cũng phải giết một con dê trong đàn dê, con nào đuôi to thì phải giết. Có điều Lý Trị luôn không nỡ? Chính Lý Trị cũng không nghĩ, mình sẽ trở thành con dê con đầu đàn, tính cách hướng nội, luôn luôn lo sợ, chỉ cần nhìn thấy ánh mắt trừng trừng như sói của lũ Trưởng Tôn Vô Kỵ đã thấy lo ngại sợ sệt. Bọn chúng dám đụng đầu cả với Thái Tông hoàng đế, liệu còn gì khiến chúng không dám.
Cần có người để Lý Trị thổ lộ nỗi niềm và cũng cần có người giúp Lý Trị thoát khỏi hoàn cảnh ấy. Nhưng, có thể trò chuyện với ai đây? Lũ hậu phi chỉ biết tranh giành xâu xé, bọn triều thần thì lo âm mưu tính kế. Vị hoàng đế trẻ tuổi luôn cảm thấy cô độc, cám thay ở cao nên lạnh.
Đúng lúc đó, Thượng đế đã phái Võ Tắc Thiên tới.
Lý Trị và Võ Tắc Thiên mới gặp đã đem lòng yêu thương. Lúc hai người dan díu vụng trộm, có thể chỉ là sự rung động nhất thời. Nhưng rất nhanh, Lý Trị đã phát hiện người đàn bà hơn mình bốn tuổi này đúng là có khí chất và ma lực đặc biệt, giá có cầu cũng chẳng được. Một chàng trai, lòng dạ luôn e ngại lo sợ giống như Lý Trị, rất thích những người đàn bà lớn tuổi hơn, kiểu như mẹ như chị gái; còn những người có khí chất đặc biệt của nam tử hán, lại rất thích người ít tuổi hơn mình, kiểu như con, như em gái. Huống chi Lý Trị còn kinh ngạc phát hiện thấy trên người đàn bà đó có những cái mà mình không có. Võ Tắc Thiên trầm tĩnh, mưu sâu nghĩ xa, nhạy cảm quyết đoán, tinh lực dồi dào, ngược hẳn với tính cách của mình: Đa sầu đa cảm, nhu nhược tuỳ tiện, do dự quả đoán. Lý Trị như được cổ vũ rất nhiều từ những phát hiện của mình. Lý Trị quyết tâm chung sống với người đàn bà này, mong có thể giải quyết được những khó khăn trước mắt. Vì vậy, bằng mọi giá, Lý Trị phải đưa người đàn bà đó lên ngôi hoàng hậu. Đó là điều mà bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ không sao hiểu được. Bởi sức tưởng tượng của họ có giới hạn, không thoát khỏi cái vòng luẩn quân là háo săc hoặc sợ vợ. Họ càng không hiểu trong lòng vị hoàng đế trẻ tuổi đang suy nghĩ những gì.
Lý Trị kỳ vọng ở Võ Tăc Thiên rất nhiều điều và cũng là những điều Võ Tắc Thiên đang muốn làm.
Cho đến bây giờ chúng ta vẫn chưa rõ được, hứng thú chính trị và tài năng chính trị của Võ Tắc Thiên là từ đâu mà có? Khác hẳn với những người đàn bà bình thường khác, Võ Tắc Thiên có tiềm năng và sự nhạy bén trời sinh về mặt chính trị, thêm vào đó là trực giác của người đàn bà, nên khi nói về chính trị, Võ Tắc Thiên như có thêm nanh thêm vuốt so với người chồng Lý Trị. Võ Tắc Thiên biết, việc gì nên làm việc gì chưa nên làm, việc gì cần làm trước, việc gì để lại sau, chính nhờ vào cách làm việc ổn định, có trước có sau, Võ Tắc Thiên đã từng bước lên tới đỉnh cao.
Sau khi là hoàng hậu, ngoài việc cấp bách cần làm là phế trừ thái tử Lý Trung, lập thái tử khác là Lý Hoàng - con đẻ của mình, Võ Tắc Thiên còn phải xây dựng một hệ thống tổ chức của riêng mình. Võ Tắc Thiên và Lý Trị có chung nhận thức về những việc này, thậm chí Lý Trị còn đau xót hơn Võ Tắc Thiên: Lý Trị đã nếm mùi chống đối mỗi khi các nguyên lão liên hợp lại. Nếu các nguyên lão trọng thần động một tí là liên hợp lại với nhau để chống đối mình, thì ngôi vị hoàng đế của mình còn có ý nghĩa gì? Vì vậy khi Võ Tắc Thiên đề xuất nên trọng thưởng và đề bạt số người ủng hộ mình làm hoàng hậu, Lý Trị không hề suy nghĩ đã đồng ý luôn.
Sự thực thì, Lý Trị cũng rất cảm kích đối với số người này. Còn nhớ rất rõ, lúc Lý Trị đề xuất, cần phế Vương hoàng hậu, lập Võ Tắc Thiên, về cơ bản các triều thần đều nghiêng về một phía. Ngoài số ít người không nói năng gì, đa phần đều đứng về phía bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ và từng người từng người đều phẫn kích, xúc động, tưởng như Lý Trị đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Cứ nghĩ tới chuyện đó là cảm thấy lạnh gáy. Vậy, giang sơn Đại Đường là của Lý Trị hay của bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ đây? May sao đã có Hứa Kính Tông, Lý Nghĩa Phủ bước ra nói chuyện. Người thứ nhất là Lý Nghĩa Phủ công khai lên tiếng ủng hộ Lý Trị, Hứa Kính Tông đứng giữa triều đường, tạo dư luận giúp Lý Trị. Điều đó khiến Lỵ Trị cảm thấy được an ủi rất nhiều, giống như đấu sĩ tác chiến đơn độc gặp được hiệp khách vung gươm hỗ trợ, giống như người độc hành đi trong đêm, tận nơi hoang vu vắng lặng, nhìn thấy một đốm lửa từ xa.
Điều mà con người trân trọng nhất, là sự giúp đỡ khi người ta đang bị cô lập, dù đó là sự giúp đỡ ít ỏi, dù đó là sự giúp đỡ của một thiểu số thấp hèn. Không, chính vì số người giúp đỡ ít ỏi, thấp hèn như vậy, nên sự giúp đỡ đó mới càng được trân trọng. Trong thâm tâm Lý Trị rất tán thành việc Võ Tắc Thiên trọng thưởng và trọng dụng mấy người đó. Không thưởng cho những người như vậy thì thưởng ai? Không dùng những người như vậy thì dùng ai? Cần phải đề bạt những con người như vậy, để họ đấu tranh với tập đoàn nguyên lão và Trưởng Tôn Vô Kỵ.
Lý Trị suy nghĩ như vậy là rất tự nhiên. Đương nhiên, Lý Trị sẽ không nghĩ rằng: số người này thuộc đội ngũ của mình, hay là người bên Võ Tắc Thiên? Đương nhiên, Lý Trị cũng không nghĩ, họ ủng hộ mình vì chính nghĩa, công lý, nguyên tắc hay vì sự trung thành tuyệt đối trước quân vương, mà họ hoàn toàn vì lợi ích cá nhân, và trước đó, họ đã phải suy nghĩ tính toán dốc túi nhiều, cuối cùng mới quyết định chơi một canh bạc, bạc được đặt trên người Võ Tắc Thiên - một minh tinh chính trị đang lên.
Ít ra thì Lý Nghĩa Phủ là vậy. Vì Lý Nghĩa Phủ là tiểu nhân.
Trên chính đàn thời đó, danh tiếng Lý Nghĩa Phủ rất xấu. Y biệt hiệu là “Lý Miêu”, ví với loài mèo, bề ngoài thì dịu dàng, lòng dạ lại ác độc, miệng nam mô bụng một bồ dao găm. Một người xấu xa như vậy, còn là người chống lại tập đoàn (chỗ dựa của Lý Nghĩa Phủ là Lưu Ký, Ký là phe đảng của Nguỵ vương Lý Thái, là kẻ thù sống chết của Trưởng Tôn Vô Kỵ và Chử Toại Lương, sau này đã bị Chử Toại Lương hãm hại). Đương nhiên, Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng không dung, đã tìm cách giáng chức và đẩy Lý Nghĩa Phủ ra xa. Lý Nghĩa Phủ hốt hoảng, liền hỏi kế Vương Đức Kiệm. Kiệm nói, lúc này chỉ có một người cứu được ngươi. Lý Nghĩa Phủ vội hỏi đó là ai? Đáp là Võ Chiêu Nghi. Lý Nghĩa Phủ lúc đầu nói: E không được! Từ lâu hoàng thượng đã muốn lập Võ Chiêu Nghi làm hậu, nhưng mãi có xong đâu. Võ Chiêu Nghi lo việc của mình còn chưa xong, lo sao được việc người khác? Vương Đức Kiệm bật cười: Bảo ngươi thông minh cả một đời, sao lại hồ đồ trong một lúc. Việc của Võ Chiêu Nghi chưa thành vì chưa có người ủng hộ. Nếu có sự ủng hộ của người thì khác gì trong tuyết có lửa? Việc của Chiêu Nghi là việc của hoàng đế. Ngươi giúp hoàng đế thì lo gì không được hưởng lộc?
Lúc này Lý Nghĩa Phủ trở thành người “anh hùng” đầu tiên ủng hộ việc phế Vương lập Võ và cũng là người được hưởng ân huệ sớm nhất.
Từ đó, Lý Nghĩa Phủ lên cao, thăng tiến như diều gặp gió, trở thành nhân vật có tiếng tăm trên chính đàn. Có điều, là chó thì nhất thiết phải ăn phân. Sau khi tham chính, Lý Nghĩa Phủ chỉ làm một việc là việc bán quan. “Cựu Đường thư” nói, Lý Nghĩa Phủ “chuyên nghề bán quan”. Vì lòng tham vô độ, Lý Nghĩa Phủ đã nhận cả tiền hối lộ của cháu Trưởng Tôn Vô Kỵ, để bán cho hắn chức quan ty luật giám. Lý Nghĩa Phủ còn làm chuyện xấu khác. Ở Lạc Dương có nữ phạm nhân rất xinh đẹp, Lý Nghĩa Phủ lệnh cho thẩm phán quan Tất Chính Nghĩa phóng thích, sau đó đã chiếm lấy nàng. Sau khi âm mưu bại lộ, lại bức Tất Chính Nghĩa phải tự sát ở trong ngục. Cuối cùng, do làm nhiều điều ác, tội lỗi chồng chất, dân tình oán thán, lại thêm tính tiểu nhân đắc chí, ỷ thế hiếp người, ngay cả hoàng thượng hắn cũng chẳng coi ra gì, khiến trời tức dân oán, cuối cùng đã bị giam vào ngục, năm Long Sóc thứ ba (năm 663) đến Càn Phong năm đầu (năm 666), đã chết trên đường đi lưu đầy. Sau khi hắn chết, cả triều đã vỗ tay mừng vui hể hả.
Hứa Kính Tông lại không quá xấu xa, cũng không phải loại bất học vô thuật. Lúc Đường Thái Tông Lý Thế Dân còn là Tần vương, Hứa Kính Tông đã vào văn học quán, cùng với Đỗ Như Hối, Phòng Huyền Linh, Khổng Dĩnh Đạt, Ngu Thế Nam là mười tám học sĩ, là những cố vấn chính trị của Lý Thế Dân. Hứa Kính Tông học thức uyên bác, văn thái xuất chúng, là tác giả, từng tu sửa “Ngũ Đại sử”, “Tấn thư”, là nhà sử học. Có điều, về nhân phẩm, đức hạnh đều chẳng ra sao. Cha Hứa Kính Tông bị hại lúc binh biến ở Giang Đô cuối thời Tuỳ, Hứa Kính Tông tham sống sợ chết, nên không dám đến cứu. Phong Đức Di đem chuyện nói ra ngoài, Hứa Kính Tông căm hận Phong Đức Di, khi viết tiểu sử cho Phong Đức Di, đã thêm mắm thêm muối, “gán cho Phong nhiều tội ác”. Những người khác đưa lễ hối lộ, Hứa Kính Tông đã không tiếc lời tâng bốc tô vẽ. Học vấn cao như vậy, nhưng thực sự đạo đức lại rất kém.
Có điều, lúc này thì Võ Tắc Thiên và Lý Trị chưa thể nghĩ nhiều về đạo đức. Với họ, thì việc xây dựng đội ngũ, tập kết nhân lực là quan trọng nhất, bất kể đó là quân tử, là tiểu nhân.
Bọn Lý Nghĩa Phủ đắc thế hơn hẳn bọn Chử Toại Lương đang bị giáng chức. Mọi người bắt đầu hiểu rõ, đắc tội với Võ Tắc Thiên cũng là đắc tội với hoàng thượng, thậm chí còn tệ hại hơn. Ngược lại, dựa vào Võ Tắc Thiên, là đứng về phía hoàng thượng, nhất định sẽ được thăng quan tiến tước. Thế là, số người trước đây còn bàng quan do dự, nay đã nhận rõ tình thế, số hàn môn nhân sĩ, sô quan lại hàng dưới từng bị bài xích áp chế nay đã có hy vọng, số tiểu nhân vốn chỉ biết mượn gió bẻ măng, nay đã có cơ hội vươn lên. Dưới lá cờ của Võ Tắc Thiên, bắt đầu tập kết nhân sự, đội ngũ của bà đã lớn mạnh.
Nhưng cũng từ đó, bà được coi là: Gần gũi tiểu nhân, trọng dụng lũ phỉ.
Võ Tắc Thiên không mấy thích thú tiểu nhân. Không mấy người thích thú tiểu nhân, ngay cả tiểu nhân cũng không thích tiểu nhân. Nhưng, số chính nhân quân tử lại không muốn hợp tác, vậy bà phải làm gì đây? Hơn nữa, những người từng phản đối bà, cũng chưa hẳn đã sạch sẽ cả, phải chăng, họ đã từng làm nhiều việc xấu xa, thất đức? Chử Toại Lương đã vu cáo Lưu Ký, Trương Tôn Vô Kỵ hãm hại Lý Khắc. Thủ hạ của họ ối kẻ là tiểu nhân. Kẻ tám lạng, người nửa cân, đâu có khác gì nhau. Đã vậy, không thể bàn tới đạo đức, chỉ có thể dựa vào thái độ chính trị để nhận rõ từng người.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyThu Sep 18, 2014 2:30 pm

Có điều, Võ Tắc Thiên trọng dụng bọn Hứa Kính Tông, Lý Nghĩa Phủ không hoàn toàn vì trả công cho họ, cũng không phải vì hết người dùng, mà vì Võ Tắc Thiên hiểu rõ, tiểu nhân có cái hay của tiểu nhân. Trong thể chế chính trị chuyên chế, tiểu nhân luôn là công cụ thuận tiện nhất của nhà độc tài, người có dã tâm, người có mưu đồ. Thời loạn thường dựa vào họ mới nổi đình nổi đám (họ giỏi phao tin thất thiệt), thời bình nhờ họ để ban bố thái bình (họ luôn nói khuếch nói khoác). Nhất là những lúc có đấu tranh nơi cung đình, tiểu nhân có tác dụng không thể thay thế. Những việc mà chính nhân quân tử không chịu, không dám làm, đều có thể giao cho lũ tiểu nhân và xin cứ an tâm, bảo đảm sẽ có kết quả làm chúng ta vừa ý. Huống hồ, dùng tiểu nhân tiện hơn dùng quân tử. Tiểu nhân không có quan niệm về đạo đức, nên dễ mua chuộc; không có ý chí cá nhân, nên dễ chỉ huy; không có cơ sở xã hội, không sợ họ vểnh đuôi lên; tự thân không mấy giá trị, nên dùng xong, có thể vứt mà không tiếc. Vì vậy, các bậc đế vương xưa nay đều dùng quân tử lẫn tiểu nhân. Tác dụng của quân tử là mở rộng chính nghĩa, xây dựng mẫu mực, tác dụng của tiểu nhân là đe doạ khủng bố, thực hiện âm mưu. Quân tử là dê dẫn đầu, tiểu nhân là chó giữ nhà. Quân tử là hư, tiểu nhân là thực. Có quân tử làm gương, ai nấy tự giác trung quân; có tiểu nhân làm tai mắt, là tay chân, không ai dám mưu phản. Một quân chủ cao minh nhất phải sử dụng cả hai loại người này, giống như chiếc gậy và củ cà rốt, không thể thiếu một thứ nào. Trong giai đoạn sau, khi chấp chính, Võ Tắc Thiên dùng phần lớn là chính nhân quân tử, như Địch Nhân Kiệt, nhưng lúc này thì chưa được. Bà vẫn phải dựa vào tiểu nhân để giúp mở một con đường máu.
Tác dụng của tiểu nhân gồm bốn loại: Giúp việc, bợ đỡ, hát phụ hoạ, đồng loã tiếp tay. Lý Nghĩa Phủ không mấy nhẫn nại, chỉ có thể hát phụ hoạ; Hứa Kính Tông đầy bụng kinh luân, có thể đồng loã tiếp tay. Năm Hiển Khánh thứ tư (năm 659), người Lạc Dương là Lý Phụng Tiết tô cáo quan tẩy mã (là quan thị tòng trông coi thư tịch cho thái tử) là Vi Quý Phương và giám sát ngự sử Lý Sào là mưu gian phản nghịch, Lý Trị cử Hứa Kính Tông thẩm tra vụ án. Hứa Kính Tông nhớ lại, năm đó Trưởng Tôn Vô Kỵ đã lợi dụng án mưu phản của Phòng Di Ai để hãm hại Lý Khắc, và vẫn theo cách đó, kính Tông đã làm giả lời cung mưu phản của Trưởng Tôn Vô Kỵ. Lý Trị không dám tin, Hứa Kính Tông nói, chứng cứ xác thực. Lý Trị đau lòng rơi lệ, nói nhà ta quá bất hạnh, trong thân thích luôn có người lòng dạ bất lương. Mấy năm trước, công chúa Cao Dương cùng Phòng Di Ái mưu phản, nay cậu trẫm cũng vậy. Trẫm thấy xấu hổ, còn mặt mũi nào để nhìn thiên hạ! Hứa Kính Tông xúc xiểm thêm: Phòng Di Ai vắt mũi chưa sạch, công chúa Cao Dương là phận gái, dù có phản cũng chẳng nên trò trống gì! Trưởng Tôn Vô Kỵ thì khác hẳn. Từng giúp tiên đế đoạt thiên hạ, người người luôn bái phục cơ trí của Vô Kỵ; từng có ba mươi năm là tể tướng, người người đều kinh sợ trước quyền uy của Vô Kỵ. Hẳn bệ hạ còn nhớ Vũ Văn Thuật! Thần tận mắt nhìn thấy Tuỳ Dạng đế đã tín nhiệm, ưu ái gia đình họ như thế nào. Thật đúng là quyền cao hơn cả, thế nghiêng triều dã, nói là phải nghe, không kể đúng sai. Nhưng kết quả đã ra sao? Chẳng phải con của Vũ Văn Thuật đã giết Dạng đế sao? Lẽ nào bệ hạ lại quên tấm gương tày liếp?
Đương nhiên, Lý Trị không hề quên, Thái Tông hoàng đế đã nói chuyện này nhiều lần. Tuỳ Dạng đế chết không phải tại số mệnh, vì quá yêu thương, quá tín nhiệm cha con nhà Vũ Văn. Và thế là Lý Trị lại rơi lệ, nói: Dù cậu trẫm có là vậy, trẫm cũng không nỡ giết ông ấy. Giết cậu thì người thiên hạ, người đời sau sẽ nhìn trẫm thế nào đây! Lúc này, Hứa Kính Tông phải phát huy vai trò của nhà sử học. Hứa Kính Tông nói: Người cậu của mẹ Hán Văn đế là Bạc Chiêu vì giết người mà phạm tội, Văn đế lệnh trăm quan khóc, còn mình thì nén nước mắt, cho giết Bạc Chiêu, đến nay người đời vẫn coi Văn đế là thánh minh. Tội của Trưởng Tôn Vô Kỵ rất lớn, còn gì để bệ hạ phải nhẫn nhịn? Người xưa nói: Đáng quyết mà không quyết tất sẽ loạn. Nếu bệ hạ cứ dung túng gian trá, thì loạn sẽ gần kề, sau này có hối cũng không kịp.
Lý Trị hoàn toàn bị thuyết phục bởi nhà sử học tài ba này. Lý Trị hết chú ý tới án của Trưởng Tôn Vô Kỵ, giao toàn bộ cho Hứa Kính Tông xử lý, thậm chí còn không sai người triệu Trưởng Tôn Vô Kỵ đến hỏi. Ngày hai mươi hai tháng tư, cho đoạt lại quan tước, đất phong và đầy Trưởng Tôn Vô Kỵ ra Kiềm Châu. Mấy người liên can tới vụ án như Liễu Thị, Hàn Ái bị xoá tên, Vu Chí Ninh bị bãi quan. Tháng bảy, nhân lúc Lý Trị lệnh thẩm tra lại án, Hứa Kính Tông cử trung thư xá nhân Viên Công Du ra Kiềm Châu, bức Trưởng Tôn Vô Kỵ nhận tội, tự sát. Tiếp đến là giáng chức, là sung quân, là xoá tên hoặc giết tất cả những viên quan liên can tới vụ án. Thương thay cho Trưởng Tôn Vô Kỵ, một đời hào kiệt, nguyên lão hai triều, ba mươi năm làm tướng quốc, mộr đời quyền thế ngút trời, chỉ sai lầm một chút và còn vì Hứa Kính Tông, khéo mồm dẻo mỏ, ngậm máu phun người, mà tất cả đã sụp đổ, như băng tan núi lở, cả tập đoàn bị nhổ đến tận gốc. Ai bảo miệng lưỡi không thể giết người?
Đến nay chúng ta vẫn chưa có cách gì để làm rõ, Võ Tắc Thiên đã đóng vai gì trong vụ án này? Nhưng có thể khẳng định, bà đã vỗ tay tán thưởng. Ngay cả vai diễn của Lý Trị cũng rất dễ chịu. Bề ngoài, Lý Trị đã bị Hứa Kính Tông bưng bít, nên đã mơ hồ giết cậu, và trong lòng luôn luôn không nỡ. Nhưng nếu không được Lý Trị gật đầu, mặc nhận, dung túng thì liệu Hứa Kính Tông gan có lớn như vậy hoặc dám mạnh tay đến như vậy? Có thể, Lý Trị và Võ Tắc Thiên đều không có chỉ thị hoặc ám thị gì cho Hứa Kính Tông và mọi việc đều cho hắn tự cho là thông minh để tự biên tự diễn và đây chính là bản lĩnh của tiểu nhân. Chúng luôn biết chủ nghĩ gì, muốn gì, rồi tìm cách thực hiện bằng được những ý nghĩ mà chủ không tiện nói. Nhưng đây cũng là điểm đáng thương của tiểu nhân: Chúng không chỉ phải giúp chủ làm điều xấu, mà còn phải mang tiếng xấu thay chủ.
Có điều, chẳng bao lâu sau Lý Trị không cười được nữa. Lý Trị phát hiện thấy, sau khi loại bỏ tập đoàn Trưởng Tôn Vô Kỵ thì hình như quyền lực đã rời khỏi tay mình, không còn thú vị gì nữa khi là hoàng đế.
Có một việc đã kích thích mạnh đến Lý Trị. Đó là việc làm của Lý Nghĩa Phủ - chó săn của Võ Tắc Thiên. Thằng cha Lý Nghĩa Phủ ỷ mình là thân tín, là tư đảng của Võ Tắc Thiên, trong khi nắm quyền tuyển chọn quan viên, đã công khai mua quan bán tước, làm điều trái đạo, ngay cả bọn gia nhân cũng hoành hành bạo ngược, khiến dân chúng oán thán. Lý Trị thấy hắn làm bừa quá mức, đã cho gọi hắn tới và từ tốn, ôn hoà, nói: “Con gái, con rể của ái khanh đã thiếu thận trọng quá mức, làm nhiều điều phi pháp, trẫm có thể giúp khanh che giấu những điều đó, nhưng ái khanh cũng phải dạy dỗ chúng”. Nào ngờ Lý Nghĩa Phủ, mặt biến sắc, cổ gân lên, má đỏ lựng, gân xanh cuồn cuộn, gắng nhẹ nhàng, từng câu từng chữ hỏi lại Lý Trị: “Ai đã nói với bệ hạ như vậy?”. Lý Trị nghĩ thầm, phải chăng đây là lời nói của thần tử với hoàng thượng? Lý Trị nén giận nói: “Chỉ cần trẫm nói ra sự thực, thì cần gì phải hỏi trẫm là ai nói?”.
Lý Trị rất bực về sự việc đó. Lý Nghĩa Phủ, tên vô lại, chó ỷ thế người, dám không coi trẫm ra gì, đáng phải giết! Nhưng, đánh chó phải ngó chủ nhà. Cứ nghĩ đến chủ nhân của con chó này, Lý Trị đã thấy ngại, Lý Trị càng ngày càng thấy khó hiểu về hoàng hậu nương nương của mình. Và cũng càng ngày càng không hiểu, một vị hoàng đế như mình sẽ phải làm gì? Trước kia mặt đối mặt với bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương, Lý Trị cảm thấy có áp lực. Lúc này đổi là Lý Nghĩa Phủ, Hứa Kính Tông, Lý Trị cảm thấy đang bị lừa dối. Lúc trước Lý Trị cảm thấy giang sơn không phải của mình, là của bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ. Lúc này, Lý Trị cảm thấy giang sơn vẫn không phải của mình, là của Võ Tắc Thiên. Lý Trị cảm thấy ấm ức, bực tức.
Do ấm ức và bực tức Lý Trị đã gắng sức làm ba việc. Tháng mười hai năm Lân Đức thứ nhất (năm 664) vì hứng chí nhất thời, Lý Trị quyết định phế bỏ Võ hậu. Tiếc là chiếu thư chưa ráo mực đã bị Võ hậu phát hiện. Kế hoạch cũng phá sản theo, còn đèo theo vào đó cả tính mạng tể tướng Thượng Quan Nghi. Mười một năm sau, tháng ba năm Thượng Nguyên thứ hai, (năm 675), Lý Trị dự định sẽ thoái vị nhường quyền, để Võ Tắc Thiên nắm giữ triều chính hoặc dứt khoát để Võ Tắc Thiên làm hoàng đế, mong được yên tĩnh, an hưởng tuổi già. Tể tướng Hách Xử Tuấn đã kiên quyết phản đối những ý nghĩ lung tung bậy bạ của Lý Trị, nói như vậy không chỉ là không kính trời (đạo trời âm dương lẽ nào lại bị đảo lộn) mà còn không sợ tổ tiên (chẳng nhẽ lại cho người khác cơ nghiệp tổ tiên), thực không thoả đáng. Lý Trị nghĩ tới việc truyền ngôi cho Lý Hoằng. Nào ngờ, tháng tư năm đó, Lỵ Hoằng đã đột ngột qua đời, qua đời một cách đáng ngờ! Lý Trị phát hiện thấy những cố gắng của mình đều vô ích. Lý Trị chẳng khác gì chú dê béo đuôi to, làm hoàng đế mà chẳng khác gì bị nhét vào giữa một bầy sói. Sở dĩ chưa bị ăn thịt, bởi vì cả đàn sói chỉ trông vào mỗi một chú dê. Hơn nữa đàn sói thấy cần thiết phải giữ đầu dê lại để tiện cho việc bán thịt chó của chúng. Lý Trị không còn cách gì để thoát khỏi đàn sói đó, đành phải phó thác cho tự nhiên, một ngày là hoàng đế là một ngày phải lên triều.
Lúc này, sức khỏe của Lý Trị mỗi ngày một kém. Sau khi Lý Trị lên ngôi mười một năm, Võ Tắc Thiên là hoàng hậu năm năm, tức là năm Hiển Khánh thứ năm (năm 660), Lý Trị mắc bệnh phong hàn, mắt đã mờ, mọi việc triều chính phải trao cho Võ hậu xử lý. Năm Long Sóc thứ hai (năm 662) Lý Trị mắc bệnh phong tê; năm Hàm Hanh thứ tư (năm 673) mắc bệnh sốt rét. Tóm lại, nửa sau cuộc đời, Lý Trị sống trong đau đớn bệnh tật. Lý Trị đành phải rời bỏ công việc triều chính.
Ngược lại, Võ Tắc Thiên càng sống trẻ, càng làm càng có lửa. Sau năm Hiển Khánh thứ năm, Lý Trị sinh bệnh Võ Tắc Thiên bắt đầu tham dự triều chính, thiên tài chính trị đã được bộc lộ.
Năm Lân Đức thứ nhất, sau khi âm mưu phế hậu bị phá sản, Võ Tắc Thiên bắt đầu buông rèm nghe chính, cùng lên cùng xuống với Lý Trị, được gọi là “Nhị thánh”. Năm Càn Phong thứ nhất (năm 666), bà cùng Lý Trị lên núi Thái Sơn, mở ra tiền lệ hoàng hậu tham dự đại lễ Phong Thiền. Năm Thượng Nguyên thứ nhất (năm 674), bà đổi xưng là “Thiên hậu” (Lý Trị xưng là “Thiên hoàng”) khác hẳn với các hoàng hậu khác. Cùng năm, bà đã ban bố mười hai điều cương lĩnh hành chính, cải cách chính trị. Thực tế lúc này bà đã trở thành lãnh tụ chính trị, là nhân vật hạt nhân của vương triều Đại Đường. Vì vậy, vào năm Hoằng Đạo thứ nhất (năm 683, Lý Trị qua đời, (năm năm sáu tuổi), Võ Tắc Thiên gần như không mất nhiều sức, đã dễ dàng tiếp quản chính quyền.
Sau khi Lý Trị qua đời, Võ Tắc Thiên tiếp quản chính quyền Đại Đường, điều đó không có gì là lạ cả. Từ năm 655 được sách phong đến năm 683 Lý Trị tạ thế. Võ Tắc Thiên là hoàng hậu hai mươi tám năm. Trong hai mươi tám năm đó, không lúc nào Võ Tắc Thiên được nhàn rỗi hoặc nghỉ ngơi. Bà luôn hoạt động trên vũ đài chính trị của Đại Đường và luôn như người đang trộn bài. Trộn một hồi, thắng một trận. Trong mười năm đầu kể từ lúc Võ Tắc Thiên là hoàng hậu (từ năm 655 đến năm 664) người chủ chính cơ bản là Lý Trị. Lý Trị ngày ngày lâm triều, Võ Tắc Thiên lâm triều thì đại để chỉ năm thì mười hoạ mới có một lần. “Thời kỳ Nhị thánh” trong vòng mười năm (năm 664 đến năm 674) Lý Trị và Võ Tắc Thiên cùng lâm triêu. Từ sau Thời kỳ Thiên hậu (năm 674 đến năm 683), Võ Tắc Thiên hàng ngày lâm triều, thỉnh thoảng Lý Trị mới lâm triều. Thế là, đã mất một trong hai vị trí.
Võ Tắc Thiên biết nhìn xa trông rộng nên mới có thành quả như hôm nay. Võ Tắc Thiên yêu cầu được tham dự lễ Phong Thiền, mọi người nghĩ, người đàn bà này thích được mọi người biết đến, nào ngờ đây là việc tạo dư luận. Võ Tắc Thiên dâng thư bàn về cải cách, mọi người cho rằng đây chỉ là tâm huyết của đàn bà, nào ngờ đó là chuyện bàn về chính trị. Võ Tắc Thiên muốn triệu tập người có học vào cung tu tuyển sử tịch, mọi người thấy chẳng có gì đáng phái để ý. Thái độ của Lý Trị là bàng quan, vô sự. Mặc sức để Võ Tắc Thiên làm những việc “không mấy quan trọng”. Dù Võ Tắc Thiên nhấn mạnh đặc biệt ba câu danh ngôn của Thái Tông hoàng đế: “Lấy đồng làm gương, chỉnh được áo, mão; lấy sử làm gương, biết được hưng tàn, lấy người làm gương, hiểu lẽ được mất”, mọi người luôn nghĩ, điều đó can hệ gì tới cục diện chính trị và dã tâm chính trị của người đàn bà này lớn đến nhường nào! Đến lúc bọn “Bắc môn học sĩ”(2) - những người giúp Võ Tắc Thiên biên tập thư tịch, xuất hiện và có những tác dụng nhất định trên triều đường, mọi người mới ngộ ra: Võ Tắc Thiên không chỉ muốn nghiên cứu lịch sử, còn muốn viết lại lịch sử; không chỉ muốn mình có một ban viết lách riêng, còn muốn họ trở thành ban hành chính, ban cố vấn của riêng mình. Thiên hậu nương nương, hoàn toàn không phải chỉ biết ăn no và không làm gì.
Đã có sự chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng, tổ chức, dư luận, nên chỉ còn cách chừng một bước nữa, Võ Tắc Thiên có được đế vị.
Chú thích


(1) Đường Cao Tông, Vĩnh Huy năm thứ ba (năm 652), công chúa Cao Dương cùng chồng là phò mã Phòng Di Ái và Tiết Vạn Triệt, Sài Lệnh Vũ… mưu phản, âm mưu phê Cao Tông, lập Hình vương Lý Nguyên Cảnh làm đế. Ngô vương Lý Khắc không liên can. Vô Kỵ từng phản đối Lý Khắc là thái tử, nên sợ Lý Khắc báo thù. Để có thể vứt bỏ mối tâm bệnh, Vô Kỵ liền vu cáo Lý Khắc có dính vào đó, và tự mình đề thẩm án phạm, dùng cực hình man rợ. Lý Khắc được ban cho tự vẫn (Tác giả).
(2) Học sĩ có thể đi cửa sau, nên gọi là Bắc môn học sĩ (Tác giả).

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyMon Sep 22, 2014 12:11 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
VÕ TẮC THIÊN
- 3 -
Mũ hoàng đế dệt bằng máu
Dù đã chuẩn bị nhiều lần như vậy, việc Võ Tắc Thiên muốn làm hoàng đế, không phải là việc dễ.
Theo lý, sau khi hoàng đế băng hà ngôi báu sẽ do hoàng tử kế vị. Võ Tắc Thiên có bốn người con, có ba người từng là thái tử. Người thứ nhất là Lý Hoằng. Từ tháng giêng năm Hiển Khánh thứ nhất (năm 656), Lý Hoằng được phong là thái tử, nhưng Lý Hoằng đã mất vào tháng tư năm Thượng Nguyên thứ hai (năm 675). Nhiều người nói, Lý Hoằng đã bị Võ Tắc Thiên hại chết. Đã chết thì làm gì còn người để đối chứng, huống hồ sức khỏe của vị thái tử này vốn cũng rất tồi, ngay vào năm được phong là thái tử, Lý Hoằng đã ốm nặng, “ngự y đã phải bó tay”. Vào năm Hàm Hanh thứ hai (năm 671) Lý Hoằng được giao quyền giám quốc, nhưng vì nhiều bệnh, nên bọn Đới Chí Đức đã phải giải quyết việc triều chính. Vì vậy, có thể coi là Lý Hoằng ốm chết.
Vị thái tử thứ hai là Lý Hiền. Lý Hiền được lập vào năm Thượng Nguyên thứ hai (năm 675), bị phế vào năm Vĩnh Long thứ nhất (năm 680). Việc Lý Hiền bị phế vẫn còn là một nghi án. Chúng ta chỉ biết hai mẹ con họ rất hay nghi ngờ lẫn nhau. Có người cho là Lý Hiền đã tổ chức danh Nho chú giải “Hậu Hán thư”, luôn nói về hậu phi, ngoại thích can dự chính sự, phạm vào điều kiêng kỵ của Võ Tắc Thiên; cũng có người nói, điều cơ bản vì Lý Hiền không phải con đẻ của Võ Tắc Thiên, mà là con riêng của Lý Trị và chị gái của Võ Tắc Thiên, là Hàn Quốc phu nhân. Tóm lại, Lý Hiền bị tố giác là mưu phản, người ta tìm thấy binh khí và hàng trăm bộ giáp phục trong cung điện của Lý Hiền. Vị thái tử đáng thương này bị phế thành thứ dân và chết ở Ba Châu vào năm Tự Thánh thứ nhất (năm 684).
Chứng cứ là hàng trăm binh khí và giáp phục, e chưa đủ. Với số vũ khí trang bị ít ỏi, có thể mưu và phản cái gì? Vì vậy, số chứng cứ “xác thực” đó khác gì hình người gỗ tìm thấy trong cung Vương hoàng hậu. Hoàn toàn có hai khả năng. 1. Võ Tắc Thiên sai người làm. 2. Một người khác đã làm, mong hai mẹ con họ sẽ đấu nhau, mình là ngư ông được lợi. Nhưng nếu Võ Tắc Thiên không hề nghi ngờ đứa con của mình, thì làm sao có thể gài tang vật vào cung điện. Hơn nữa, nếu đó là vật Lý Hiền giấu riêng, cũng sẽ không dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như vậy. Thực tế thì, nếu Võ Tắc Thiên không có ý phế thái tử thì sẽ không có người đứng ra tố cáo thái tử, càng không có ai dám đến khám xét phủ đệ của thái tử. Rõ ràng, Lý Hiền đã phải chết vì bị Võ Tắc Thiên nghi ngờ.
Không có bất kỳ một chứng cứ chứng minh Võ Tắc Thiên hãm hại thái tử Hiền, hại chết thái tử Hoằng. Nhưng có thể khẳng định, Võ Tắc Thiên nghi kỵ, thậm chí là thù hận hai đứa con của mình. Vì lúc đó quần thần trong triều đều coi trọng hai vị thái tử này. Lý Trị từng nói với các vị thần: “Hoằng nhân hiếu, coi trọng đại thần, xưa nay chưa từng có”. “Tư Trị thông giám” cũng nói, Lý Hoằng nhân hiếu, biết giữ lễ, “được trên quý mến” và “trong ngoài kỳ vọng”. Đương nhiên, Võ Tắc Thiên không thích điều đó. Võ Tắc Thiên hy vọng, trong ngoài luôn kỳ vọng ở mình, không phải ở bất kỳ người nào khác. Vì vậy, Lý Hoằng đột nhiên qua đời, khi đó có người nghi là chính Võ Tắc Thiên đã hại chết con mình - “Người thời đó cho là Thiên hậu đã giết người bằng rượu độc”.
Sau khi Lý Hoằng mất, mọi người lại chuyển sang ủng hộ Lý Hiền. Vì khi đó, mọi người đều thấy rõ, dã tâm của Võ Tắc Thiên là không nhỏ, từ lâu Lý Trị đã buông lơi quyền lực. Hơn nữa, sức khỏe của Lý Trị đã suy sụp, tính cách lại nhu nhược, dù muốn đoạt lại chính quyền, chỉnh đốn triều cương cũng không làm được. Vì vậy, mọi người mới hỵ vọng vào thái tử mới. Và Lý Hiền cũng không phụ lòng mong mỏi của họ. Lý Hiền dung mạo tuấn tú, cử chỉ đoan trang, từ nhỏ đã thích đọc sách, đọc xong là nhớ. Lý Hiền còn chủ trì việc chú giải “Hậu Hán thư”, trình độ cao, đến nay vẫn đầy quyền uy. Danh tiếng Lý Hiền nổi như cồn. Triều đình đã nhất trí cho rằng, Lý Hiền sẽ thừa kế ngôi lớn, làm chủ nhà Đường. Thậm chí Lý Trị còn nói với Lý Thế Tích: “Đứa trẻ này rất nghiêm minh, không hổ là tài năng dựng nên nghiệp lớn”. Nếu mấy đứa khác đều được như Lý Hiền thì “Đại Đường hết phải lo!”.
Đại Đường hết lo, Tắc Thiên lại lo. Võ Tắc Thiên tùng nếm mùi độc chiếm đại quyền, nên không thích có người cầm gậy trên đầu mình. Vừa khéo lúc đó lại có án Minh Sùng Nghiêm bị giết. Minh Sùng Nghiêm là kẻ luôn giả thần giả quỷ để chữa bệnh cho mọi người, nghe đâu hắn cũng có biết một chút ma thuật. Nghiêm từng nói với Võ Tắc Thiên, thái tử Hiền tướng mệnh không tốt, không thể kế thừa, nên lập người khác như Anh vương Lý Hiển hoặc Tương vương Lý Đán. Sau này, Minh Sùng Nghiêm bị người khác giết mộr cách rất thần bí. Nhân viên xét án liền cho bắt Triệu Đạo Sinh để xét hỏi. Sinh là đối tượng đồng tính luyến ái với Lý Hiền. Sinh khai, Lý Hiền đã mua chuộc và sai bọn đạo tặc đến giết. Mọi tình tiết của vụ án đều hết sức chặt chẽ, không có sơ hở. Nhưng có thể khẳng định: Hoặc một tay Võ Tắc Thiên đã tạo ra án oan này, hoặc Võ Tắc Thiên đã lợi dụng án Minh Sùng Nghiêm, rồi tác động thêm. Và Võ Tắc Thiên đã đạt được mục đích.
Có thể, Lý Hiền nên đọc sách ít đi một chút. Lý Hiền không nên cướp mất vở diễn của Võ Tắc Thiên khi Võ Tắc Thiên đang muốn làm đẹp vai diễn của mình. Lý Hiền chỉ biết thái tử có thể là hoàng đế, nhưng chưa biết ngay cả hoàng đế cũng có thể bị phế bỏ, huống chi chỉ là thái tử?
Lý Hiển là vị thái tử thứ ba, đã bị phế khi còn ở ngôi hoàng đế. Thằng cha này là kẻ khốn nạn, là bao cỏ. Lý Hiển nhút nhát, háo sắc, sợ vợ, kém cỏi hơn cả cha mình. Lý Trị tuy có yếu đuối một chút, nhưng xưa nay vẫn là người tự biết mình, luôn thận trọng thoả đáng trong đối nhân xử thế, vì vậy mới có mộr ít uy vọng. Ngược lại, Lý Hiển không biết được mình nặng nhẹ mấy cân mấy lạng. Vừa lên đài được vài hôm, ngồi chưa nóng chỗ, đã vội bợ đỡ nghe theo vợ, muốn để bố vợ là Vi Huyền Trinh làm tể tướng. Tể tướng Bùi Viêm không bằng lòng, vị hoàng đế hồ đồ kia liền nói: “Đất nước là của trẫm, trẫm muốn cho ông ta cả thiên hạ thì có gì là ghê gớm, huống hồ chỉ là để ông ta làm thị trung?”. Điều đó, không chỉ làm Võ Tắc Thiên bực bội, không thể dung, mà những người khác cũng hết cách để tiếp nhận. Hơn nữa đây còn là lời nói tức giận, nên nhẫn nhịn sao được. Vì vậy, anh chàng này chỉ làm hoàng đế được vài tháng, đã bị Võ Tắc Thiên và Bùi Viêm lôi ra khỏi bảo toạ.
Trên thực tế, Lý Hiển cũng không thể coi là vua. Năm Thần Long thứ nhất (năm 705), sau khi Võ Tắc Thiên thoái vị, Hiển lại làm hoàng đế, cuối cùng thì chết oan. Vì Vi hoàng hậu muốn học theo mẹ chồng làm nữ hoàng, con gái là công chúa An Lạc muốn làm hoàng thái nữ. Họ hợp mưu cho thuốc độc vào bình rượu, nhằm đưa vị hoàng đế kia đến Tây Thiên. Truy Tông Lý Hiển - con dê đuôi to, đầu óc ngu muội, đem cả đời mình gửi vào ba người đàn bà yêu quý nhất: Mẹ ruột Võ Tắc Thiên, vợ yêu Vi hoàng hậu và con gái cưng Lý Quả Nhi. Thực dễ hiểu, dẫu Võ Tắc Thiên không phế hắn thì hắn cũng không thể là hoàng đế tử tế được.
Hoàng đế kế tiếp là Duệ Tông Lý Đán một người thông minh. Lý Đán dứt khoát không lên triều, mọi việc triều chính giao hết cho mẫu hậu xử lý, nói mình còn ít tuổi, chưa hiểu việc (năm đó Đán hai mươi hai tuổi), mình vô đức vô tài, chưa thể nắm được việc nước. Hai năm sau, Võ Tắc Thiên đề xuất trả lại ngôi vị cho Lý Đán, Đán khấu đầu, chịu chết chứ không nhận. Việc đã đến nước này thì sớm hay muộn, Võ Tắc Thiên cũng phải tìm người khác thay cho Lý gia.
Nhưng Võ Tắc Thiên cũng chẳng vội vàng đội lên đầu chiếc mũ hoàng đế.
Võ Tắc Thiên không phải là người nhẹ dạ manh động (đó là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến bà thành công). Bà thừa hiểu, việc mà bà muốn làm là việc xưa nay, dưới gầm trời này chưa hề có. Ở Trung Quốc, xưa nay chưa hề có người đàn bà nào là hoàng đế, là nữ mà chấp chính nắm quyền đã là “bất hợp pháp”. Muốn vậy, cần có vật đệm, có chuẩn bị, làm cho mọi người thay đổi cách suy nghĩ và cũng cần biết nhẫn nhịn, chờ đợi, nhìn trước ngó sau. Võ Tắc Thiên có thể làm được như vậy, bà nhẫn nại, biết kìm nén, nhưng không thể chờ đợi quá lâu, vì bà đã sáu mươi mốt tuổi.
Thực tế thì tình hình lúc đó cũng không cho phép bà được nhàn nhã, nhìn trước ngó sau. Đấu tranh về quyền lợi, xưa nay vẫn là cuộc đấu tranh một sống một chết, nhất là thay triều đổi đại, càng không phải là thêu hoa dệt gấm. Sau khi Cao Tông qua đời, đế vị bị bỏ trống đã thành vấn đề hết sức nhạy cảm, vở diễn treo đầu dê bán thịt chó đã hết thời. Võ Tắc Thiên đứng trước hai lựa chọn: Nên chăng trả lại chính quyền cho con, để con Lý Trị đi bán thịt dê; hay trưng biển hiệu cửa hàng Võ gia, công khai bán thịt chó. Võ Tắc Thiên rất hiểu, mọi người đang chờ xem bà trộn bài, thậm chí còn rất nhiều người đang mài dao, trừng trừng nhìn bà bằng mắt hổ.
Người thứ nhất công khai nhảy ra thách đấu với Võ Tắc Thiên là Từ Kính Nghiệp. Ngày hai mươi chín tháng chín năm Tự Thánh thứ nhất (năm 684) cũng tức là hơn bảy tháng sau khi Trung Tông Lý Hiển bị phế, hơn sáu tháng sau khi Chương Hoài thái tử Lý Hiền tự sát, Từ Kính Nghiệp cất quân ở Dương Châu, tuyên bố sẽ lật đổ “nguỵ chính quyền” của Võ Tắc Thiên bằng vũ lực. Từ Kính Nghiệp là cháu của Lý Thế Tích. Lý Thế Tích được Thái Tông hoàng đế ban họ Lý, lúc đó, Từ Kính Nghiệp cũng được gọi là Lý Kính Nghiệp, có điều, lúc này Lý Kính Nghiệp đã trở mặt với Võ Tắc Thiên, Võ Tắc Thiên liền phẫn nộ tuyên bố Kính Nghiệp không còn tư cách là họ Lý. Từ Kính Nghiệp cũng thẳng thắn tuyên bố, để chú là Lý Tư Văn (hiện đã bị Kính Nghiệp bắt) đã không chịu cùng Kính Nghiệp khởi binh đánh Võ Thị mang họ Võ. Xem ra, Từ Kính Nghiệp và Võ Tắc Thiên đã giống nhau về điểm này. Lý là họ của hoàng gia, họ cao quý, lẽ nào lại để cho “tên giặc” mang họ đó? Lý Kính Nghiệp phản bội triều đình, đương nhiên là nên mang họ Từ; Lý Tư Văn đã theo chân Võ Thị, nên cứ để cho Tư Văn mang họ độc ác ti tiện là Võ Tư.
Việc tranh giành họ là việc đáng buồn cười ở ngày nay, nhưng lúc đó lại là việc rất nghiêm túc. Cả hai bên đều tuyên bố với cả nước, để tỏ mình là đường đường chính chính. Kỳ thực, Từ Kính Nghiệp mang họ gì đều không quan trọng, điều quan trọng là, hành động lần này của Kính Nghiệp, hình như vừa mở đầu đã có dấu hiệu thất bại. Ngay từ đầu, Kính Nghiệp đã không có chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, quân lính và tài chính, chỉ là mấy vị quan thất ý, mấy văn nhân lạc lõng, sau khi tụ lại với nhau đã ầm ĩ, khẳng khái trần rình và vội vã khởi binh, nói mạnh rằng, sẽ lật đổ cả thiên hạ, như vậy thì thất bại là đúng.
Nhưng Từ Kính Nghiệp đã không nghĩ tới những điều đó. Mở đầu, Từ Kính Nghiệp rất vênh váo. Từ Kính Nghiệp mời Lạc Tân vương viết hịch văn, mắng mỏ chửi rủa Võ Tắc Thiên, tuyên truyền cổ động bàn dân thiên hạ. Lạc Tân Vương không hổ là một trong “Sơ Đường tứ kiệt”, văn phong thực kỳ lạ. Lạc Tân vương là người bất đắc chí, u uất lâu ngày, bị phẫn cộng với thù riêng, nộ khí từ hịch văn bốc lên ngùn ngụt, khiến trời sầu đất thảm, quỷ thần phải rơi lệ. Dưới ngòi bút của Lạc Tân vương, Võ Tắc Thiên là loại người chẳng ra gì, bản tính bất lương (không hoà thuận), xuất thân ti tiện (thực chất là hàn vi), che giấu lịch sử (giấu việc vụng trộm trước tiên đế), trà trộn vào cung Cao Tông (mưu toan thành người được o bế ở hậu phòng). Vừa vào cung đã lộ đuôi con hồ ly (mọi người ghen ghét, người đẹp không nhường; khép nép gièm pha, hồ mị mê hoặc chủ). Một khi có quyền lực là bản tính lang sói lộ ra (cặp kè kẻ xấu, tàn hại trung lương, giết em hại anh, giết vua hại mẹ). Thực là vô cùng ác độc, không thể tha, lẽ ra trời đất phải tru diệt từ lâu rồi (nhân thần đều ghét, trời đất không dung)! Huống chi, lúc này Võ Tắc Thiên đang mưu đồ lật đổ Đại Đường, hòng cướp đế vị, khiến linh hồn tiên đế không được yên nghỉ, các con yêu của tiên đế không được yên thân (một tảng đất chưa khô, đứa con côi cút sáu thước, biết gửi gắm cho ai), đúng là “chuyện này có thể nhẫn nhịn, thì còn có chuyện gì không nhịn được nữa đây” (tột cùng của sự nhẫn). Từ Kính Nghiệp là “cựu thần hoàng Đường, con trưởng của công hầu”, đã “thờ tiên quân để thành nghiệp”, lại “nhận hậu ân của triều đình”, đương nhiên không thể thấy chết không cứu, buông tay ngồi nhìn. Để “thuận theo lòng người, hợp ý thiên hạ”, Kính Nghiệp giương cao ngọn cờ chính nghĩa, tập kết vũ trang trừ yêu. Đây thực là một lực lượng hùng mạnh! “Nam liền Bách Việt, bắc tận sơn hà, thiết kỵ thành đàn, cơ giới liên tiếp”. Đấy thực là đạo quân uy vũ! “Tiếng người đông làm nổi gió bắc, mũi kiếm sắc đã bình miền nam, lời thì thầm làm tuyết tan trên đỉnh núi, tiếng la thét làm gió mây phải đổi màu”. Một lực lượng không ai thắng nổi (lấy đó đánh địch, địch nào không lui). Một đội quân như vậy sẽ không có đối thủ (lấy đó đánh thành, thành nào không đổ). Mong được thắng lợi thì thắng lợi đã rõ ràng. Không tin, “thử xem, nay trong thành, thiên hạ là của nhà nào!”.
Đây đúng là bài hịch văn tinh tế nhất, xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc, lời hịch đanh thép, khí thế ngời ngời, ngay cả Võ Tắc Thiên, đọc xong cũng vỗ bàn khen hay, một nhân tài như thế này mà chưa được phát hiện, thực là “sai lầm của tể tướng”. Phản quân của Từ Kính Nghiệp tự nhiên được hời, thành quân của người nhân, quân chính nghĩa, quân uy vũ, quân thắng lợi. Đáng tiếc, vũ khí phê phán không thể thay cho phê phán bằng vũ khí. Đội quân ô hợp Từ Kính Nghiệp tạm có được không thể là đối thủ của thiên binh vương triều. Chỉ qua mấy hiệp đã bị đánh cho tơi bời khói lửa, phải trốn chạy.
Kỳ thực, vết tích bại trận của Từ Kính Nghiệp đã hiện rõ ngay trong lời hịch của Lạc Tân vương. Trong lời kết của hịch văn Từ Kính Nghiệp có hứa: “Cùng chỉ sơn hà, sẽ thưởng tước vị”. Ý muốn nói, Từ mỗ xin đảm bảo với mọi người, chỉ cần các vị tham gia hành động của Từ mỗ, vậy, sau khi thành công, mọi tước vị sẽ được phong thưởng, lúc này có thể chỉ sơn hà làm tư. Khẩu khí như vậy, là cả miền núi sông rộng lớn này, lúc đó đã trở thành của Từ Kính Nghiệp, đây chính là cuồng vọng, kiêu binh tất bại? Chưa nói tới chuyện, lúc đó thắng bại còn chưa rõ, và dù tương lai có thắng lợi, quan tước không phải một mình Từ Kính Nghiệp phong, ân vinh cũng không phải một mình Từ Kính Nghiệp thưởng, về mặt lý luận, đó là việc của hoàng thượng. Bằng khẩu khí của hoàng đế, Từ Kính Nghiệp đã nói như vậy, chẳng phải đã để lộ dã tâm của lang sói, muốn xưng vương, xưng đế? Từ Kính Nghiệp tiến đánh Võ Tắc Thiên, nếu nói ít nhiều có chút khả năng thắng lợi, như vậy mới có được chữ “nghĩa”. Lúc này đã lấy lợi thay nghĩa, vốn chính trị đã mất, còn lại tự chuốc lấy diệt vong.
Thực tế thì Từ Kính Nghiệp bại chính là bại ở điểm này. Quân sư Nguỵ Tư Ôn từng nói với Từ Kính Nghiệp, chúng ta phải lấy việc giúp vua, khôi phục Đường thất để hiệu triệu, cần phải trực tiếp lấy Lạc Dương, tranh thủ để người thiên hạ vùng lên hưởng ứng. Nhưng Từ Kính Nghiệp vẫn không thể chống lại sự cám dỗ của cái gọi là “Kim Lăng vương khí” và căn cứ địa xưng vương, không chịu đánh về hướng bắc, lại cho quân tiến về hướng đông. Kết quả, bị bại trận, trên đường chạy về phía Cao Lỵ, liền bị bộ hạ giết chết. Từ Kính Nghiệp chỉ âm ỉ được chừng bốn, năm mươi hôm rồi thân bại danh liệt, chỉ có thể nói là đáng đời.
Trước lúc Võ Tắc Thiên loại bỏ tư cách họ Lý của Từ Kính Nghiệp một hôm, tức là ngày mười tám tháng mười năm Tự Thánh thứ nhất, tể tướng Bùi Viêm bị chém oan và cũng không oan.
Bùi Viêm chết vì tội mưu phản. Chứng cứ là Bùi Viêm có tiếp xúc với phần tử phản loạn là Lạc Tân vương, còn có thư từ qua lại với Từ Kính Nghiệp. Nghe nói, để Bùi Viêm mang tội mưu phản, Lạc Tân vương đã soạn một câu ca dân gian “nhất phiến hoả, lưỡng phiến hoả, phi y tiểu nhi đương điện toạ”, và giải thích là: “Phi y” là Bùi, “nhất phiến hoả, lưỡng phiến hoả” là Viêm, “tiểu nhi” là Tử Long (tự của Bùi Viêm), “đương điện toạ” rõ ràng là làm hoàng đế, như vậy đã kích thích lòng dạ muốn phản của Bùi Viêm. Lại nghe nói, trong thư Bùi Viêm gửi cho Từ Kính Nghiệp chỉ có hai chữ “thanh nga”, Võ Tắc Thiên đã đoán ra tháng mười hai (thanh), ngã tự dữ (nga)”, tức là vào tháng mười hai, Bùi Viêm sẽ phát động chính biến ở triều đình, hưởng ứng quân Dương Châu. Tóm lại, theo cách nói đó, Bùi Viêm có động cơ phạm tội, sự thực có phạm tội, chứng cứ rành rành, không cho phép giải thích, phải giết.
Kỳ thực, Bùi Viêm không cùng đường với Từ Kính Nghiệp. Bùi Viêm cảnh giác với con người này, ông không muốn dây vào việc Từ Kính Nghiệp muốn làm. Mục đích của Từ Kính Nghiệp, lật đổ Võ thị, tự xưng vương. Mục đích của Bùi Viêm, buộc thái hậu thoái vị, hoàn trả chính quyền cho Duệ Tông. Họ có điểm chung là lật Võ nhưng điểm khác nhau quá lớn. Bùi Viêm phản đối vũ trang phản loạn, càng không muốn để Từ Kính Nghiệp trở thành vấn đề. Bùi Viêm dự định cùng Trình Vụ Đỉnh tiến hành binh gián với Võ Tắc Thiên, giống như lấy sự kiện của Trương Học Lương, Dương Hổ Thành đối với Tưởng Giới Thạch. Có điều, Trương, Dương đã thành công, còn Bùi và Trình thì không thành. Nguyên nhân không thành công vì vận khí không may. Họ định nhân lúc Võ Tắc Thiên du ngoạn Long Môn “cho quân ra ép”, buộc Võ Tắc Thiên phải trao trả chính quyền. Chỉ vì hôm đó xấu trời, mưa liên miên, không thể thực hiện được kế hoạch.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyTue Sep 23, 2014 11:24 am

Vì vậy, lúc Từ Kính Nghiệp khởi binh ở Dương Châu, có thể nói, Bùi Viêm có hai tâm trạng: “một là vui, hai là sợ”. Vui vì, cuối cùng đã có người công khai khiêu chiến với quyền uy của Võ Tắc Thiên, có thể bà ta sẽ không thể độc quyền chuyên chế nữa. Sợ vì, một khi cuộc chiến bắt đầu, sẽ rất khó để ổn định thời cuộc. Hơn nữa, chưa biết phải làm gì để đối phó với hoàng thái hậu túc trí đa mưu hiện nay hoặc với Từ Kính Nghiệp nắm trọng binh sau này. Nhưng đây là một cơ hội tốt trời ban, ngàn năm mới có một lần, có thể ngồi chơi hưởng lợi, nên Bùi Viêm không thể bỏ mặc. Bùi Viêm quyết định chơi ván bài này. Bùi Viêm liền nói với Võ Tắc Thiên: Hoàng đế tuổi cao, không tự nắm chính trị, nên bọn phỉ mới có cơ làm càn. Nếu thái hậu trả lại chính quyền cho hoàng thượng, thần cho rằng bọn phản quân không đánh cũng tan”.
Bùi Viên chơi nước cờ hiểm. Bài tính như ý của Bùi Viên như sau: Mình binh gián không thành, nay có thể mượn quân của Từ Kính Nghiệp. Nay mượn quân của Từ Kính Nghiệp, buộc Võ Tắc Thiên phải hạ màn, sau lại dùng quân của Võ Tắc Thiên ép Từ Kính Nghiệp phải nhận sai. Chỉ cần thái hậu thoái vị, hoàng đế lên triều, hành động quân sự của Từ Kính Nghiệp sẽ là ra quân vô danh, nếu cứ kiên trì tiếp tục sẽ là mưu phản. Lúc đó không nói là “không đánh cũng tan”, và dù có đánh thì cũng dễ dàng hơn nhiều. Và bất luận là quân không đổ máu vẫn bình được phản loạn hay là không động can qua vẫn thu được triều chính. Bùi Viêm luôn là anh hùng cái thế, danh thần ngàn thu. Huống chi, cách nói của Bùi Viêm không phải là không có lý. Từ Kính Nghiệp không có bụng phản Đường thì ngược lại, y sẽ ra quân dưới cờ hiệu hồi phục Đường thất. Vậy, nếu hoàng đế trở lại triều chính, lẽ nào Từ Kính Nghiệp lại không cuốn cờ, yên trống, phủ phục xưng thần?
Rất tiếc, không dễ gì gạt được Võ Tắc Thiên. Bà không thay đổi sắc mặt còn cười thầm trong bụng: Trẻ tuổi lại dám giơ ngón này với bà già! Không đánh cũng tan? Thiên hạ làm gì có phản tặc không đánh cũng tan! Đại quân ra trận, chắc gì đã bình được! Bùi Viêm ngươi đầu óc tỉnh táo, kinh nghiệm chính trị phong phú, lẽ nào không hiểu được điều đó? Lẽ nào không thấy được mục đích thực của Từ Kính Nghiệp là “cùng chỉ sơn hà, sẽ thưởng tước vị” sao? Dù ta có hoàn trả chính quyền cho hoàng đế, Từ Kính Nghiệp lại sẽ mượn cớ “hoàn chính là giả”… để tiếp tục hưng binh làm loạn. Xem ra, gọi là “không đánh cũng tan” là giả, muốn bà già này hạ màn mới là thật. Chẳng trách ngươi chẳng hứng thú gì với việc đánh lại phản tặc. Đối với loại ngươi này, Võ Tắc Thiên xưa nay chưa bao giờ nhẹ tay. Bùi Viêm và Từ Kính Nghiệp chẳng phải nam bắc cùng hô ứng, một bên hát một bên hò sao? Vậy được, dù ngươi là kẻ phụ hoạ, là kẻ nội ứng, hoặc giậu đổ bìm leo, đục nước béo cò, bà già nay cứ giết ngươi trước, tránh hoạ ở kề bên, có tránh cũng chẳng kịp. Cho nên, không một chút do dự, Võ Tắc Thiên đã đưa Bùi Viêm lên đoạn đầu đài. Sau khi bình định phản loạn Dương Châu, Võ Tắc Thiên cho chém Trình Vụ Đỉnh trước ba quân.
Án phản của Bùi Viêm đã chấn động cả triều dã. Không mấy người tin Bùi Viêm mưu phản là thật. Vì ai cũng hiểu Bùi Viêm bị bắt, theo lệ còn phải khám nhà. Nhưng thật lạ, đường đường là tướng phủ, mà trong nhà sạch trơn, không có một thứ gì! Trình Vụ Đỉnh lại càng oan uổng. Một đời là công thần, là danh tướng Đại Đường, Trình Vụ Đỉnh không những không mưu phản mà luôn anh dũng tác chiến bảo vệ biên cương, quân thù nghe tên đã khiếp vía, không dám xâm phạm. Sau khi Trình Vụ Đỉnh bị hại, tướng sĩ ngoài biên ải đau đớn, khóc lóc, bên Đột Quyết thì vui sướng nhảy múa, bày tiệc chúc mừng. Võ Tắc Thiên giết Trình Vụ Đỉnh, thực chất là một việc khiến người thân đau lòng, kẻ thù khoái trá!
Thực tế, Bùi Viêm và Trình Vụ Đỉnh có phản hay không, chỉ có hai người và Võ Tắc Thiên là hiểu rõ nhất. Tức là: Nếu Võ Tắc Thiên không là hoàng đế, hoàn trả chính quyền cho Duệ Tông thì họ sẽ không phản, nếu Võ Tắc Thiên ngang nhiên xưng đế, Bùi Viêm và Trình Vụ Đỉnh tất sẽ phản. Có điều không ai muốn nói ra điều đó. Vì vậy, lúc có người khuyên Bùi Viêm nhận tội xin tha, có thể sẽ được miễn tội chết, Bùi Viêm chỉ cười và lắc đầu, nói: Tể tướng hạ ngục không hoàn toàn có lý, nói nhiều chỉ bằng thừa. Cũng vậy, khi các đại thần trong triều đảm bảo là Bùi Viêm không phản, khi nói “Nếu Bùi Viêm mưu phản thì chắc thần cũng mưu phán, Võ Tắc Thiên cũng chí cười, rồi lắc đầu nói: Trẫm biết Bùi Viêm tất phản, còn khanh và những người khác sẽ không phản. Rõ ràng hai bên đều hiểu nhưng không nói ra.
Chưa bàn tới án mưu phản của Bùi Viêm có chứng cứ xác thực không, chỉ biết Bùi Viêm chết là bi kịch. Đối với Bùi Viêm là bi kịch, đối với Võ Tắc Thiên cũng là bi kịch. Bởi vì họ đều không “sai”, nhưng đều phải trả giá, là một tổn thất thê thảm, nặng nề. Bùi Viêm đã phải chết vì chủ trương của mình, đó là: Chỉ có đàn ông mới được làm hoàng đế và hoàng đế phải là con cháu Lý Thế Dân. Từ lễ giáo phong kiến, từ những điều Bùi Viêm được học, như vậy là đúng, là “chính nghĩa”, là “chính đạo”. Võ Tắc Thiên chủ trương: Kẻ mạnh là vua, chỉ những người có năng lực mới có thể làm hoàng đế, bất kể đó là đàn ông hay đàn bà, là họ Lý hay họ Võ. Về một góc độ khác, điều đó không sai, cũng là “chính nghĩa”, là “chính đạo”. Kết quả Bùi Viêm và Võ Tắc Thiên có sự xung đột về nhận thức, thế nào là “chính nghĩa”, “chính đạo” và cả hai bên đều phải trả giá: Bùi Viêm mất mạng, Võ Tắc Thiên mất danh thần, danh tướng, ngang như tự chặt đi tay trái, tay phải của mình.
Có điều, từ tận sâu thẳm đáy lòng, Võ Tắc Thiên cảm thấy cần phải cảm ơn Bùi Viêm.
Nếu nói, cuộc phản loạn ngắn ngủi của Từ Kính Nghiệp đã tăng thêm lòng tin của Võ Tắc Thiên, trên đời này không có việc gì là không làm được, thì cuộc chính biến không thành của Bùi Viêm đã nhắc nhở Võ Tắc Thiên luôn phải cẩn thận, không bao giờ được sơ suất để mất Kinh Châu. Đường đi không bằng phẳng, tiền đồ không thuận buồm xuôi gió, nguy cơ bốn phía, hiểm hoạ khắp nơi. Từ Kính Nghiệp phản loạn rõ ràng là không được lòng dân (đúng như Trần Tử Ngang - người thời đó, nói: “Dương Châu phản nghịch trong vòng năm tuần, cả nước lại yên, mọi việc đâu vào đấy”), còn việc mình lâm triều xưng chế cũng bị rất nhiều người phản đối (cũng đúng như trọng thần Lưu Y Chi từng nói: “Thái hậu đã phế hôn lập minh, còn lâm triều xưng chế! Chi bằng trả chính để yên lòng thiên hạ”). Xem ra, sự tàn sát, tra xét nghiệt ngã trong Lý Đường tông thất không phải là điều đáng sợ, mà lễ pháp truyền thống mới là kẻ thù ương bướng khó có thể chiến thắng. Nghĩ lại năm đó, trong hoàn cảnh phi thường, Tào Tháo đã làm được việc phi thường, là “ép thiên tử để lệnh chư hầu”, nay Võ mỗ, trong lúc bình thường muốn làm việc phi thường, cần có hành động phi thường. Hiển nhiên, đối với Võ Tắc Thiên, con đường đi tới đế vị là con đường được lát bằng xương bằng máu. Chiếc mũ trên đầu nữ hoàng cũng được dệt bằng máu tươi. Bà không thể chờ để ai đó va vào họng súng. Bà cần tạo ra sự khủng bô giết người để răn đe, người người đâu vào đấy, người người im thin thít.
Lúc này, Võ Tắc Thiên hiểu rằng mình đang làm một cuộc cách mạng vĩ đại, long trời lở đất. Vào thời cổ Trung Quốc, cách mạng có nghĩa là thay triêu đổi đại, tức là biẽn cách thiên mệnh”, như Ân cách mệnh Hạ, Chu cách mệnh Ân… Cho nên sách “Chu Dịch” nói: “Thang, Vũ cách mệnh là thuận ý trời, hợp lòng người”. Có điều, Thương Thang cách mệnh cũng hay, Châu Vũ cách mệnh cũng tốt, nhưng cuộc cách mệnh của Võ Tắc Thiên lại không hề giống vậy. Chuyện trước xảy ra lúc vương triều cũ đã tàn tạ, chuyện sau xảy ra lúc vương triều mới còn đang hưng thịnh; chuyện trước là đàn ông một gia tộc thay thế đàn ông một gia tộc khác, chuyện sau là người đàn bà muốn cướp thiên hạ của đàn ông; chuyện trước là thông qua vũ trang cướp chính quyền, chuyện sau là làm chính biến nơi cung đình. Rõ ràng khó khăn của Võ Tắc sẽ càng nhiều và có “thuận ý trời hợp lòng người” hay không cũng là vấn đề lớn. Nhưng Võ Tắc Thiên là người đàn bà có nữ tính vĩ đại, không sợ trời không sợ đất, không tin ma không sợ thua, ngay cả trăng sao nhật nguyệt cũng coi như không (chữ Chiếu gồm ba chữ nhật, nguyệt, không). Nếu Thượng đế không cho bà cách mệnh, bà sẽ cách luôn cả mệnh của Thượng đế. Nếu ông trời không cho bà bầu không khí cách mệnh, bà sẽ tự tạo ra. Nếu mọi người đều không tán thành bà cách mệnh, bà sẽ làm cho mọi người không dám mở miệng. Tóm lại, bà sẽ tạo ra một bầu không khí chính trị, để mọi người đều hiểu rằng, chống lại bà là việc làm vô ích.
Và với lý lẽ hùng hồn, Võ Tắc Thiên đã thực hiện cách cai trị bằng hệ thống khủng bố, đặc vụ. Bộ phận hạt nhân của nền chính trị và cách thống trị này là chế độ cáo mật, tập đoàn khốc lại và án oan, giả, sai. Tạo ra án oan, sai, giả, vu cáo hãm hại địch thủ chính trị, những người mình không thích là mưu phản. Đây là kỹ xảo một số nhà chuyên chế độc tài quen dùng. Lưu Bang đã dùng, Tào Tháo đã dùng, đương nhiên Võ Tắc Thiên cũng có thể dùng. Võ Tắc Thiên khác ở chỗ, công khai và phổ biến, khích lệ việc cáo mật, sử dụng bọn quan lại tàn ác (khốc lại), tạo ra vô số những án oan, sai, giả. Có lẽ rất ít người làm được như Võ Tắc Thiên, khích lệ công khai việc cáo mật. Võ Tắc Thiên quy định, không ai được phép ngăn cản người cáo mật. Dù người đó là tiều phu hay nông dân, đều có thể đến kinh thành gặp hoàng đế, nói ra những điều cần nói. Họ được quan phủ lo xe ngựa, dọc đường được đãi ngộ ở mức quan ngũ phẩm, sau khi vào kinh được ở khách sạn của các quan, cơm nước theo chế độ nhà quan, hơn nữa, còn có thể được Võ Tắc Thiên đến gặp mặt và ban thưởng. Điều quan trọng là: Khi phát hiện không đúng, cũng không sao, không hề bị xử lý.
Đây là vụ buôn bán không mất vốn, chỉ có lời, nên ai cũng muốn làm. Chỉ với hai việc, đến kinh thành bằng tiền công, dọc đường được hưởng chế độ quan ngũ phẩm, đã thật đáng giá. Thế là, cáo mật từ bốn phương như ong bay tới, các đại thần trong triều luôn thấy bất an. Hàng ngày, Võ Tắc Thiên luôn đọc những thư cáo mật, luôn thấy thích thú, luôn vui vẻ nên không thấy mệt, thư cáo mật giúp Võ Tắc Thiên có được nhiều manh mối, khiến bà có thể nhìn thấy mọi động tĩnh trong triều cũng như trong xã hội. Điều đó, làm cho bà lúc nào cũng sung sướng, cười vui ngoài sức tưởng tượng. Không bao giờ bà quên, vì tình báo không sắc bén, nên bọn Từ Kính Nghiệp từng có nhiều âm mưu quỷ kế mà triều đình không hề hay biết, tận khi bọn họ tập kết mười vạn binh mã công thành cướp đất, ai nấy mới kinh hoàng thất sắc, vội vàng chống đỡ. Võ Tắc Thiên cũng không hề quên, chính nhờ có người cáo mật Bùi Viêm, dự mưu binh biến, nên Bùi Viêm mới phải chết trong chiếc nôi của mình. Đối với một nhà độc tài thì cáo mật là việc rất hay.
Vì vậy, Võ Tắc Thiên quyết định trọng thưởng những người cáo mật và chọn được một loạt quan lại tàn ác trong số những người cáo mật. Sở dĩ phải chọn số đó trong những người cáo mật vì sợ họ không chịu làm những lá thư bức cung. Không có thư bức cung thì không thể biến thư cáo mật thành án, không thể đưa phái phản đối vào chỗ chết. Sau khi đã nếm vị ngọt ngào của thư cáo mật, Võ Tắc Thiên thấy không thoả mãn nếu chỉ bằng thủ đoạn này để có được tình báo. Võ Tắc Thiên còn muốn, thông qua cách xử lý tất cả số thư cáo mật, để biến tất cả thành án oan, có như vậy, phái phản đối mới ngã hết; và cho thêm một đạp nữa, để chúng sẽ mãi mãi không gượng dậy nổi. Chỉ khi nào, từng bản án “nghe qua đã kinh người” được tiết lộ ra ngoài mới có thể chứng minh được lập chế độ cáo mật là hoàn toàn cần thiết và rất kịp thời. Vậy cần thiết phải có lũ quan tàn ác. Loại người này xuất thân ra sao, có đọc sách không, có học vấn, có hiểu pháp luật không, đều không quan trọng. Điều quan trọng là, phải biết nhìn sắc mặt của Võ Tắc Thiên, phải là kẻ ti tiện và độc ác.
Rõ ràng, chế độ cáo mật, tập đoàn khốc lại, án oan sai giả, ba thứ này phải thành một chuỗi liên hoàn. Có người đứng ra cáo mật, liền có tình báo và manh mối, và cũng sẽ có cớ có lý do để trị người; có người bổ sung vào khốc lại, lời tố cáo của kẻ mật báo mới có thể “coi là thật” và mới có thể tạo thành án oan sai giả, mới có thể lu loa thành “đất nước đang bị uy hiếp”, từ đó chế độ cáo mật, tập đoàn khốc lại mới được coi là hợp lý, hợp pháp. Dĩ nhiên, sự an toàn của đất nước đang bị uy hiếp nghiêm trọng, nên càng phải khích lệ cáo mật, trọng dụng khốc lại. Như vậy, tính chất ác độc, không khí khủng bố cũng được hình thành một cách tự nhiên. Thực ra thì đất nước đâu có bị uy hiếp đến thế. Có thể là, thần kinh Võ Tắc Thiên quá mẫn cảm hoặc chỉ là cái cớ để Võ Tắc Thiên giết người lập uy.
Và dù, những thủ đoạn đó cực kỳ ti tiện vô sỉ, bẩn thỉu hạ lưu, nhưng lại rất có tác dụng. Thời gian đó, không hề có ai dám bàn tán về công việc Võ Tắc Thiên làm, có chăng chỉ là những lời ca tụng công đức, những lời bợ đỡ lấy lòng, những lá thư màu xanh tốt lành và những tờ biểu xin bà lên ngôi đã tới tấp bay về cung bay đến bệ rồng như tuyết rơi. Sau mấy lần vờ vĩnh chối từ, thì vào ngày mùng chín tháng chín năm Thiên Thụ thứ nhất (năm 690) người đàn bà có dã tâm lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc đã được toại nguyện, được đội lên đầu chiếc mũ hoàng đế dệt bằng máu. Năm này Võ Tắc Thiên sáu mươi bảy tuổi.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyWed Sep 24, 2014 11:21 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
VÕ TẮC THIÊN
- 4 -
Tả hữu cùng giương cung
Võ Tắc Thiên đã thắng, nhưng thắng chẳng vẻ vang gì. Vì trong cuộc giao tranh này, Võ Tắc Thiên đã dùng thủ đoạn nhục nhã nhất - là cáo mật, xây dựng một cơ chế ti tiện nhất - chế độ cáo mật.
Cáo mật được khẳng định là một hành vi hạ lưu ti tiện nhất trong xã hội loài người. Bất luận Võ Tắc Thiên xuất phát từ động cơ gì để khuyến khích cáo mật; bất luận là từ sau khi đăng cơ, Võ Tắc Thiên đã làm bao nhiêu việc tốt, có bao nhiêu cống hiến thì những lời giải thích cho việc khích lệ cáo mật, đều là những lời vô sỉ nhất. Có thể chúng ta không đòi hỏi quá khắt khe với bản thân Võ Tắc Thiên, nhưng không thể không trách cứ cáo mật.
Cáo mật và trình báo là khác nhau. Trình báo xuất phát từ công phẫn (căm phẫn chung), cáo mật xuất phát từ ý riêng, trình báo xuất phát từ chính nghĩa, cáo mật xuất phát từ tà ác. Động cơ cáo mật không ngoài hai mục đích: Hoặc hãm hại người khác cho hả giận, hoặc để kích công lĩnh thưởng, bợ đỡ lấy lòng. Đó chính là việc làm hại người, lợi mình. Hơn nữa, cáo mật luôn có ý là bán đứng. Vì chỉ có tố giác những việc thầm kín nhất mới là cáo mật và không phải là người có quan hệ thân mật nhất thì làm sao có thể biết được những điều thầm kín? Có thể thấy cáo mật không chỉ là tố cáo những bí mật, mà còn là tố cáo người thân, hoặc gọi là bán đứng. Trong lịch sử, những kẻ tố cáo, nếu không là bán chủ cầu vinh, thì cũng là bán bạn cầu vinh, nếu không là bán đứng người thân, cũng là bán đứng đồng chí. Cho nên, cơ chế cáo mật vừa bắt đầu, phong khí xã hội nhanh chóng bị ô nhiễm; những tình cảm tốt đẹp của nhân loại như thân tình, ái tình, tình bạn đều mất hết.
Không phải Võ Tắc Thiên không biết điều này. Chế độ cáo mật của bà được tung ra dưới cái tên là trình báo. Đầu tiên, Võ Tắc Thiên cho đặt những ống đồng giống như hòm thư ở bốn phía miếu đường, phân biệt thu nhận các tấu biểu của người cùng phe về bốn phương diện - khuyến nông, chỗ được mất của triều đình, thẩm oan cáo trạng và quân cơ thiên tượng, bày tỏ rộng đường dư luận, tình hình ở dưới bẩm báo lên trên. Võ Tắc Thiên cũng nói: “Thiết lập ống đồng là muốn ý dân được đưa thẳng lên triều đình, chính nghĩa được bày ra thiên hạ”. Đáng tiếc, trong thể chế chính trị chuyên chế, nói như vậy là để bịt tai che mắt người khác hoặc là nói suông. Ý dân thực sự không bao giờ được phản ánh lên, có phản ánh lên cũng sẽ không được tiếp nhận, vì tà ác đang giả chính nghĩa hoành hành trong thiên hạ, vì thể chế là quân chủ không phải dân chủ. Dân là chủ, đương nhiên, ý dân là ý trời, vua là chủ thì ý trời chưa hẳn ý vua. Như vậy, mọi biện pháp mở rộng đường ngôn luận đều là vô ích. Vì nói hay không là dân, nghe hay không là tuỳ vua. Vua đương nhiên là trọng tài cao nhất của ngôn luận đúng sai, lành hay ác của một vị vua là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý. Như vậy, mọi người luôn phải nói những câu mà vua thích nghe, những lời nịnh bợ, để cầu tư lợi, để phòng nguy hiểm. Nên, cái gọi là “ý dân được tỏ bày, chính nghĩa nêu cao”… sẽ trở thành lời ma quái tự dối mình và dối người.
Các vị quân chủ thường thích nghe những gì? Là những lời tâng bốc bợ đỡ, ly gián chia rẽ. Vì các vị quân chủ chuyên chế luôn mắc hai bệnh thông thường: 1. Luôn cho mình là đúng. 2. Luôn nghi thần nghi quỷ. Vì vậy, bên cạnh các vị quân chủ chuyên chế, luôn có hai loại người: 1. Là xu nịnh. 2. Là cáo mật. Xu nịnh luôn tạo ra cảm giác thoải mái, cáo mật bảo đảm sẽ được yên bình. Dù các điều bí mật được tố giác chỉ là sự công kích lẫn nhau giữa các thần tử và đó là điều rất hay, vì các thần tử không nhường nhịn, không thân tình thì ngôi vị của hoàng đế mới an toàn. Nếu các thần tử đoàn kết nhất trí, thì hoàng đế sẽ đơn côi lẻ bóng. Cho nên các vị quân vương xưa nay, chưa hề có ai không thích nghe những lời xu nịnh, chưa có ai không thích nghe những lời cáo mật, có điều những lời ca tụng công đức vốn nói công khai, phần lớn những lời cáo mật bỏ vào ống đồng.
Võ Tắc Thiên cần cáo mật, nhưng chưa hẳn đã thích thú với những lời cáo mật, bà cần tra xét xem đâu là của phái phản đối đang ẩn náu, bà cũng hỵ vọng các đại thần trong triều cứ cắn xé lẫn nhau. Bà đã quen với loại quyền thuật này. Vì vậy bà đã cố ý làm lẫn lộn trình báo và cáo mật, cố ý không truỵ cứu những người cử báo sai. Đó không chỉ là khích lệ cáo mật, mà còn là cổ động vu cáo. Lý lẽ rất đơn giản: Tố cáo người khác, có thể may mắn hơn, có thể lật đổ được kẻ thù, hoặc chơi cho hắn một vố! Lúc vận khí không may, thì cũng không mất gì, coi như là chưa tố cáo!
Thực ra, trong những năm tháng đen tối nhất, gần như là không có ai muốn “tố cáo không công”. Vì Võ Tắc Thiên không chỉ tạo nên chế độ cáo mật, mà còn nuôi dưỡng cả tập đoàn khốc lại. Số người này còn thích bọn cáo mật hơn cả Võ Tắc Thiên. Chúng phải dựa vào cáo mật để khởi gia, là “thành phần cáo mật chuyên nghiệp”, có “hứng thú nghề nghiệp”, nguyện cùng một giuộc với những kẻ cáo mật khác, rất hoan nghênh chúng gia nhập đội ngũ của mình, kết thành băng đảng chó ngựa, hoặc thuê làm tai mắt. Vả lại, nếu không có ai cáo mật, chúng sẽ không có việc làm, lấy gì để sinh sống? Lũ khốn kiếp này vốn đang mong có việc để bới ra việc, không có gió cũng nổi sóng, lúc này đã có người đến cáo mật, đâu còn có lý không được làm to chuyện? Nếu người nào đó, chỉ cần lỡ miệng một chút, đến chỗ chúng sẽ trở thành phỉ báng triều đình; một người nào đó, chỉ cần nói vài câu lung tung, đến chỗ chúng sẽ thành mưu đồ phản loạn. Phạm nhân không chịu cung khai? Chúng đã có cách. Một là tập thể vu cáo, chúng mua chuộc một số kẻ cáo mật, để cùng lúc vu cáo ở nhiều nơi, nhiều lời vu cáo một người nào đó mưu phản, làm những người không rõ chân tướng, liền tưởng là thật, người bị vu cáo không giải thích nổi. Hai là nghiêm hình bức cung. Như hình cụ của Sách Nguyên Lễ, Lai Tuấn Thần, riêng gông đeo cổ đã có hơn mười loại, nghe tên đã chết khiếp, có lợn chết sâu và câu chết nhanh”… Người ta thường nói là “lợn chết không sợ nước nóng”, hoặc là “chết hay không bằng sống dở”. Hình pháp của khốc lại có thể làm cho lợn chết phát sầu, hận là không được chết nhanh, rõ ràng là lợi hại hơn nước sôi nhiều, còn đáng sợ hơn là chết. Đáng sợ nhất là biện pháp thứ ba, tức là chém đầu phạm nhân, sau đó in dấu vân tay vào tờ cung đã viết sẵn. Có nhiều biện pháp như vậy, nên án gì cũng có thể từ bé xé ra to, biến thành án lớn, quan trọng, cần xét nhanh xử nhanh.
Thực tế, bọn khốc lại không làm to chuyện cũng không được. Vì Võ Tắc Thiên đã nói: Cần phải lắng nghe ý dân, kỳ thực chỉ hứng thú với mấy án mưu phản. Mưu phản không thể chỉ là việc của một, hai người, nhất thiết phải có tập đoàn mưu phản. Thế là, chỉ cần một người bị tố là mưu phản thì lập tức người thân, bè bạn, đồng liêu người đó phải chịu đen đủi theo. Và rồi, không khí khủng bố sẽ bao trùm lên cả nước. Không ai biết trước, đến một ngày nào đó, mình có bị tố là mưu phản không, một ngày nào đó, mình có liên can tới một vụ án nào không? Ngoài bọn khốc lại ra, mỗi đại thần trước khi lên triều đều phải nói lời từ biệt sinh tử với người thân, lúc tan triều đều cảm thấy may mắn vì còn được sống trở về nhà. Không khí chính trị một vương triều đã đến nước này, theo lý mà nói, chắc sẽ chẳng còn được bao lâu nữa.
Nhưng chính quyền của Võ Tắc Thiên thì vẫn còn. Không chỉ có thế, sau khi bà đăng cơ, đã có bầu không khí mới xuất hiện trên tất cả các mặt, chính trị, kinh tế, quân sự và văn hoá. Ngay cả kẻ thù của Võ Tắc Thiên cũng không thể phủ nhận những thành tựu đó, hơn nữa còn được coi là một kỳ tích đáng để suy ngẫm. Thực ra, điều đó cũng chẳng có gì là lạ. Vì sau khi là hoàng đế, Võ Tắc Thiên đã nhanh chóng hoàn chỉnh chính sách, từ chỗ đè nén biến thành nhẹ nhàng, từ chỗ khủng bố biến thành khai sáng. Đó chính là chỗ cao minh của Võ Tắc Thiên, cũng có thể nói đó là bản tính tự nhiên. Võ Tắc Thiên không phải là kẻ cuồng sát đẫm máu thành tính, mà là một nhà chính trị mưu sâu nhìn xa. Bà hiểu rằng, người khác nhau thì ưu điểm khác nhau, thời gian thay đổi chính sách phải thay đổi, khác gì bầu trời trùm đầu chúng ta, lúc thì gió mưa, lúc thì sấm chóp. Sống và giết, yêu và hận, khoan dung và khắc nghiệt, vỗ về và chính trị đều do nhu cầu chính trị quyết định. Để thực hiện dã tâm của mình, người đàn bà phi phàm này đã không tiếc phải vần mây thành mưa, tả hữu cùng giương cung cũng không tiếc, nói đấy phản đấy, trở mặt không nhận quen.
Ngày đầu khi mới dựng triều xưng chế, Võ Tắc Thiên đã nói với các đại thần: “Trẫm vốn hiếu sinh, thiết tha thương xót. Lưới thưa lồng lộng, thực lòng yêu chuộng, hà chính khắt khe, là chuyện lòng ta khinh ghét”. Đó là lời nói nửa giả nửa thật. Võ Tắc Thiên không thực lòng thích hà chính, cũng không thực lòng thích bọn hạ lưu ti tiện, bọn tiểu nhân độc ác, bọn khốc lại và bọn cáo mật.
Bất kỳ một người nào có thể gọi là “hùng”, dù là anh hùng, hào hùng, kiêu hùng, gian hùng, thì trong thâm tâm đều không thích. Chỉ khác nhau là, một số người hùng, dứt khoát cự tuyệt vai trò của bọn hạ lưu này, một số khác lại coi chúng như chiếc thùng đựng phân, nhưng không thể không có, chỉ có thể lợi dụng chứ không thể trọng dụng. Võ Tắc Thiên là như vậy. Trong số tay chân của Võ Tắc Thiên có ba khốc lại nổi tiếng nhất: Sách Nguyên Lễ, Chu Hưng, Lai Tuấn Thần, quan cấp đều không cao, chức vị đều không lớn. Ngoài việc thêu dệt tội danh, vu người mưu phản, chúng không còn một thứ quyền lực nào khác. Lý lẽ rất đơn giản. Thứ nhất, bọn này năng lực không cao, học vấn không nhiều, tiếng tăm không lớn, dựa vào bọn này để trị quốc là không được; và nữ hoàng bệ hạ cũng không muốn đất nước mình lâm vào cảnh loạn lạc rối ren, dân không còn đường sống. Thứ hai, bọn này đều là phường ưng khuyển, mà không thể cho ưng khuyển ăn quá no. Ăn quá no, chúng sẽ không bắt hồ ly, bắt thỏ nữa.
Võ Tắc Thiên chán ghér bọn cáo mật đến đoạn không chịu được nữa, liền tìm cơ hội làm khó dễ bọn chúng. Đương nhiên, chỉ cần chọn ra mấy việc không thật quan trọng, lôi ra mấy tên không thật quan trọng để làm khó, để trêu chọc chúng. Năm Như Ý thứ nhất tức năm Trường Thọ thứ nhất (năm 692), để biểu thị lòng thành lễ Phật, Võ Tắc Thiên tâm huyết dâng trào, đã hạ lệnh cấm sát hại súc vật, giăng bắt tôm cá (tám năm sau, có lời khuyên gián của Phong Các xá nhân Thôi Dung, bản cấm lệnh này mới được bãi bỏ). Hữu thập di Trương Đức vui mừng vì có quý tử, đã phạm lệnh, cho giết một con dê, bầy tiệc mời đồng liêu, kết quả bị một người đến dự tiệc sớm tố giác. Trong buổi triều, Võ Tắc Thiên đưa đơn cáo mật cho Trương Đức xem và nói: “Lần sau mời khách, tốt nhất là xem nên mời ai, không nên đem rượu ngon, thịt ngon nuôi chó lén cắn người”. Dưới ánh mắt trừng trừng của mọi người, kẻ cáo mật có tên là Đỗ Túc còn bị một bạt tai. Lập tức, hắn mặt đỏ tía tai, trong lòng thì nguội lạnh và từ đó hắn không dám ngẩng mặt nhìn mọi người.
Võ Tắc Thiên làm vậy thực không thoả đáng. Bà ra lệnh cấm, bà khích lệ không khí cáo mật, lại chính bà đưa thư cáo mật cho bị cáo xem, như vậy, chẳng phải là muốn xoá bỏ chủ trương của mình, hơn nữa còn có ý bán đứng bọn chó săn. Nhưng, đối với những kẻ cáo mật ti tiện bỉ ổi và kẻ bán đứng thì chẳng có gì khiến người ta sung sướng hơn là vạch trần việc bọn chúng bán đứng bọn chúng ra trước mặt mọi người. Đúng là, chỉ có chiến tranh mới tiêu diệt được chiến tranh, chỉ có bán đứng mới ngăn chặn được bán đứng. Còn như hiệu quả khiến mọi người sung sướng lại chính là nhu cầu chính trị của Võ Tắc Thiên.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyWed Sep 24, 2014 3:53 pm

Võ Tắc Thiên lúc này không còn là Võ Tắc Thiên thay mặt hoàng đế, lâm triều xưng chế, danh không chính, ngôn không thuận năm nào. Bây giờ bà đã đường hoàng là Đại Chu Thánh Thần hoàng đế. Vương triều mới cần có không khí mới. Việc cấp bách là, cần có một nền chính trị mới, phải điều chỉnh chính sách, cải thiện hình tượng, để mọi người cảm thấy được hạnh phúc và an toàn. Những năm tháng đen tối, khủng bố thuộc về Lý Đường đáng chết, không thể có ở Võ Chu xán lạn, huỵ hoàng. Hoàng đế Võ Chu là Võ Chiếu, Chiếu cũng tức là bầu trời trong sáng, mặt trời mặt trăng trên bầu trời trong sáng ở trên cao, đâu còn chỗ để ma quỷ hoành hành? Vì vậy, những hành vi cáo mật xấu xa cần phải loại bỏ tận gốc, và bọn cáo mật đáng bị khinh rẻ. Lúc này, Đỗ Túc - kẻ xuẩn ngốc vẫn muốn dùng biện pháp hạ lưu bỉ ổi đó để bợ đỡ, lấy lòng thì thực là xuẩn ngốc, mất cả hứng thú.
Võ Tắc Thiên quyết định dùng bộ óc đần độn, kém hiểu biết của Đỗ Túc giúp mọi người mở mắt ra. Thứ nhất, bây giờ triều mới, điều cần lúc này không phải là khủng bố, mà là bình yên, mọi người không nên nhầm lẫn. Thứ hai, cáo mật hay không cáo mật, nói tốt hay nói xấu người khác, đều không quan trọng, điều quan trọng là phải nhìn vào ánh mắt của mụ già, để hiểu rõ ý chí mà làm theo. Lúc bà đây cần người cáo mật lại không tố cáo, là không có mắt; lúc không cần người cáo mật lại tố cáo, cũng là không có mắt. Không có mắt chịu một bạt tai cũng là đáng đời. Còn một ý rất rõ hơn nữa: Mọi người đã thấy, thực ra trẫm rất khoan dung, bằng chứng như Trương Đức phạm lệnh mà vẫn không bị xử lý và trẫm cũng rất ghét cáo mật, bằng chứng là Đỗ Túc cáo mật đã bị xấu mặt trước mọi người. Còn như việc khích lệ cáo mật, trọng dụng khốc lại trước đây, hoàn toàn vì an toàn của đất nước bị uy hiếp, nên bất đắc dĩ phải làm như vậy. Nếu mọi người có oán trách thì hãy oán trách bọn “phản tặc”. Nếu bọn chúng không mưu phản thì trẫm đâu phải hao tổn bao nhiêu sức lực để lập ngần ấy giám ngục, nuôi dưỡng ngần ấy ưng khuyển!
Võ Tắc Thiên cuối cùng vẫn là Võ Tắc Thiên, không chí đưa được một nhân vật nhỏ nhoi là Đỗ Túc ra làm trò, mà còn thực thi được một chính sách lớn, làm xuất hiện một sự kiện lớn:
Thanh toán quá khứ, bàn giao lịch sử, sửa đổi phương châm và làm sạch bản thân. Những việc làm đen tối, khủng bố, bẩn thỉu, ác độc trước kia là trách nhiệm của người khác: Bọn Bùi Viêm muốn mưu phản, cánh Đỗ Túc không có mắt và bọn Chu Hưng hành động quá mức (một năm trước khi xảy ra việc này, Chu Hưng đã bị giết). Tắc Thiên thái hậu hoặc Tắc Thiên hoàng đế không sai lầm, bà luôn chính xác. Lúc này, Võ Tắc Thiên tỏ ra hiền lành, khoan dung độ lượng, nghiễm nhiên là Bồ Tát, lòng dạ Bồ Tát. Võ Tắc Thiên ngất nghểu trên bảo toạ hoàng đế, trên khuôn mặt già nua, luôn thường trực một nụ cười tươi tắn như hoa đào rực rỡ, hoàn toàn không ai hay biết, ở đó đã nhuốm đầy máu tanh.
Mọi thần dân vừa hoàn hồn sau cao trào khủng bố còn biết nói gì đây? Họ chỉ biết thành tâm thành ý, cảm ân cảm đức, dập đầu bái lậy, hô to: Hoàng đế của chúng ta vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.
Xem ra, Võ Tắc Thiên còn là nghệ sĩ xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Diễn xuất của bà rất tinh tế, bà diễn không mắc một sai sót nào. Nhưng mọi người cũng cần phải hỏi: Khi bà ký từng tờ, từng tờ lệnh bắt, phê chuẩn từng án, từng án tử hình, chẳng nhẽ bà chưa từng nghĩ trong số đó có án oan không? Khi nhìn thấy hết tập đoàn này đến tập đoàn khác mưu phản, rồi tất cả bị tiêu diệt, chẳng nhẽ bà tin có nhiều người mưu phản như vậy sao?
Võ Tắc Thiên hiểu rõ, người bị hại hiểu rõ, người cáo mật hiểu rõ, lịch sử cũng hiểu rõ.
Sự phản kháng cứ lặng lẽ được tiến hành trong bóng tối, biện pháp là “dùng lý lẽ của một người để trị lại chính người đó”. Ngay trước khi Võ Tắc Thiên vừa bắt đầu khích lệ cáo mật, có một kẻ tiểu nhân tên là Ngư Gia Bảo đã tự lấy máu để cúng tế chế độ đáng chết đó. Ngư Gia Bảo đã thiết kế riêng cho Võ Tắc Thiên chiếc ống đồng chuyên dùng để cáo mật. Bên trong chiếc có bốn ngăn, từng ngăn có một khe hở, thư tín vào được, không ra được. Chiếc ống đồng nhanh chóng được tạo ra và nhanh chóng nhận thư báo mật, trong đó có một bức thư tố cáo Ngư Gia Bảo. Bức mật thư tố cáo Ngư Gia Bảo đã chế tạo binh khí cho Từ Kính Nghiệp. Ngư Gia Bảo dâng hiến thiết kế chiếc ống đồng, nhằm che giấu tội và tránh khỏi bị truy cứu, tâm địa thực bất lương.
Chưa bao giờ Võ Tắc Thiên khoan dung với phán tặc, kể cá với kẻ thiết kế ra chiếc hòm cáo mật. Và giống như thời đại cách mạng Pháp, người đầu tiên bước lên đoạn đầu đài chính là người đã phát minh ra máy chém không đầu. Ngư Gia Bảo cũng biến thành vật hy sinh cho phát minh của mình, thực đúng là “kẻ đầu tiên tạo ra hình nhân, hẳn là kẻ không có người nối dõi”.
Một số pháp quan chân chính đã công khai chống lại. Họ không thể nào ngăn được cáo mật, nhưng khi xét án, họ kiên quyết không bức cung, không dùng hình, không vi phạm trình tự thẩm vấn, không tạo án oan sai giả. Đỗ Cảnh Kiệm “dùng pháp khoan bình”, Từ Hữu Công “khoan nhân vi chính”, ngay cả thuộc hạ của họ cũng thấy cảm động, từng thề sẽ không đánh đập phạm nhân. Các vị pháp quan duy trì phép nước nghiêm minh, không nghĩ gì tới an nguy của bản thân. Nhưng nếu có điểm nghi vấn, họ luôn ra sức tranh đấu theo lý. Có một lần, pháp quan Lý Nhật Tri đã tranh chấp với pháp quan Hồ Nguyên Lễ vì một án tử hình. Hồ Nguyên Lễ nói mạnh, nếu Hồ mỗ còn tại chức thì chẳng có lý gì để người này thoát chết! Lý Nhật Tri không hề khách khí, đã đối đáp lại nếu Lý mỗ không rời chức vị, thì người này không thể bị xử tội chết. Cuối cùng vụ kiện đến chỗ Võ Tắc Thiên, Lý Nhật Tri đã thắng, người kia giữ được mạng sống.
Đồng thời với việc trọng dụng bọn khốc lại Lai Tuấn Thần, Chu Hưng, Sách Nguyên Lễ, Võ Tắc Thiên dụng ý sâu xa, còn dùng cả một số pháp quan ngay thẳng, chính phái như Từ Hữu Công, Đỗ Cảnh Kiệm, Lý Nhật Tri. Võ Tắc Thiên hiểu rõ: Khích lệ cáo mật, trọng dụng khốc lại, tạo án oan sai giả chỉ là biện pháp bất thường, không thể lâu dài. Tức là bất đắc dĩ mà phải dùng và luôn phải tiết chế, giảm bớt xung đột, giữ được thăng bằng. Bà cũng hiểu, bọn Lai Tuấn Thần chỉ là loài ưng khuyển, tuy không thể không dùng, nhưng phải có giới hạn. Từ Hữu Công mới là nhân tài, rường cột của đất nước, cần được bảo vệ. Cho nên, Từ Hữu Công hai lần bị giáng, ba lần phục chức. Võ Tắc Thiên hỏi Từ: “Túc hạ luôn quyết án, sai lầm thả không ít người, nên thấy mình phải chịu tội gì đây?”. Từ Hữu Công nói: “Lưới trời thưa rộng, từng thả nhầm người có tội, nhưng đó là tội nhẹ; thương tiếc sinh mệnh, chán ghét tàn sát mới là đại đức của thánh nhân!”. Tuy chưa thể nhanh chóng tiếp nhận được cách nói của Từ, nhưng Võ Tắc Thiên không thể không thừa nhận Từ nói có lý cũng không thể không thừa nhận chính Từ là người chân chính chính phái.
Người chân chính chính phái luôn được mọi người (kể cả kẻ thù, người không cùng chính kiến) kính trọng, còn tiểu nhân ti tiện vô sỉ luôn bị mọi người (kể cả chủ, chán ghét, khinh rẻ). Trong thể chế chính trị chuyên chế, tiểu nhân thường đắc chí, nhưng một khi đã hết giá trị sử dụng thì kết cục thật thảm thương. Bọn Chu Hưng, Lai Tuấn Thần, Sách Nguyên Lễ đều không được điên cuồng bao lâu, trong đó kết cục của Chu Hưng có nhiều kịch tính nhất. Tháng hai, năm Thiên Thụ thứ hai (năm 691), khốc lại Khâu Thần Tích vì phạm tội nên bị giết, có người tố giác Chu Hưng là đồng mưu, Lai Tuấn Thần được cử thẩm tra án. Lai Tuấn Thần mời cơm Chu Hưng. Sau ba tuần rượu, Lai Tuấn Thần thành thực hỏi Chu Hưng: “Phạm nhân thường không chịu khai cung, không biết nhân huynh có cách gì không?”. Chu Hưng nói: Thật quá dễ! Lấy một thùng nước to, cho đốt củi xung quanh rồi ném phạm nhân vào đó, thì đố mà không khai”. Lai Tuấn Thần theo cách đó, cho lấy một chiếc thùng thật to đốt than chung quanh, sau đó lấy thánh chỉ ra, nói với Chu Hưng: “Có người tố giác lão huynh. Đã vậy, xin mời huynh vào thùng cho! Như có tiếng sét đánh ngang tai, Chu Hưng chỉ còn biết nhất nhất cung khai theo ý đồ của kẻ thẩm án, ngoài ra còn biết làm gì? Chu Hưng bị phán xử lưu đầy ra Lĩnh Nam, trên đường lưu đầy đã bị kẻ thù sát hại. Tên gian tặc lòng dạ đen tối, từng sát hại không ít người, lẽ ra phải “phát minh” cho mình một dụng cụ tra tấn có lợi hơn. Cả đời hắn đã ngầm hại nhiều người, sao lại không nghĩ đến mình rồi cũng sẽ có người ngầm hại.
Cái chết của Sách Nguyên Lễ tuy khác khúc mà lại cùng lời.
Kẻ cáo mật chuyên nghiệp này cũng bị người khác cáo mật, lại một người bạn cũ của hắn được phái đến xét án. Cách thẩm án của Sách Nguyên Lễ là cho phạm nhân đội một chiếc mũ bằng sắt, rồi lấy gậy đánh vào đó, tận khi óc não của phạm nhân lênh láng ra ngoài. Thế rồi, người bạn cũ hỏi bách: Có cần phái đội chiếc mũ đó cho anh không?”. Tất nhiên là Sách Nguyên Lễ vội vàng nói, “Không cần không cần”. Kết quả hắn đã chết trong ngục cùng năm đó.
Tên khốc lại độc ác nhất là Lai Tuấn Thần đã chết vào ngày mùng ba tháng sáu, năm Thần Công thứ nhất (năm 697). Lần này xử quyết công khai. Tên ma quỷ điên cuồng, ăn thịt người nuốt cả xương Lai Tuấn Thần cứ nghĩ mình muốn hại ai cũng được, nên đã chú ý đến cả Võ Thừa Tự, cháu của Võ Tắc Thiên. Kết quả, đến lượt mình phải hạ ngục. Lai Tuấn Thần bị trói vào xe tù, bị nhét quả cầu gỗ vào miệng, giải đến pháp trường. Sở dĩ phải nhét quả cầu gỗ vào miệng, vì trước đây, khi xử quyết người bị vu cáo là Hách Tượng Hiền, Hách Tượng Hiền đã lớn tiếng mắng chửi, ở pháp trường còn khẳng khái trần tình, kể ra vô số tội ác của Võ Tắc Thiên, trong đó có chuyện bà gian díu với hoà thượng. Những bí mật Lai Tuấn Thần biết còn nhiều hơn, nên phải không cho hắn được mở miệng. Ngày hành hình, người Lạc Dương ở ạt kéo tới, mong được xem kết cục của tên đồ tể ác độc ghê gớm. Lúc đầu của Lai Tuấn Thần rơi xuống đất, mọi người đồng thanh hoan hô như sấm dậy, rồi ùa lên cướp thi thể của hắn, ai nấy như điên cuồng, không sao ngăn được. Trong chốc lát, Lai Tuấn Thần đã biến thành một đống bùn. Lần nữa, Võ Tắc Thiên “không nghĩ đến tình riêng”, thể hiện là nhà chính trị tài năng. Võ Tắc Thiên tuyên bố tội ác tày đình của tên chó săn đắc lực nhất của mình, chết không đáng tiếc, không chỉ phải băm nát hắn ra, mà còn phải giết cả họ nhà hắn.
Cái chết của Lai Tuấn Thần cho chúng ta rõ: Trái với lương tâm để làm ưng khuyển thì kết cục sẽ như thế nào. Nhưng không khí xã hội bị Võ Tắc Thiên đầu độc không thay đổi khi bà giết mộr vài tên khốc lại. Có thể có người nói, những “thế lực ác” sẽ chống đối Võ Tắc Thiên. Họ vẫn quyết giữ quan niệm trọng nam khinh nữ, không chịu để người đàn bà có năng lực đặc biệt này được thoải mái.. Nhưng, lúc chống lại cái “ác”, Võ Tắc Thiên đã biến mình thành ác gấp bội. Lúc sử dụng quyền lực, Võ Tắc Thiên đã ngang nhiên biến hành vi ti tiện bỉ ổi nhất của lũ cáo mật, bán đứng thành việc làm đáng được tán thưởng và khích lệ, còn mình thì biến thành kẻ đầu sỏ gây hoạ, không hơn không kém. Võ Tắc Thiên đã khuấy động tâm địa đen tối và xấu xa nhất trong nhân tính. Lúc này, chiếc hộp của Pandora đã mở ra, dịch bệnh đã lan tràn khắp nơi.
Có điều, Võ Tắc Thiên không thể để ý tới chúng. Bao nhiêu vấn đề khó khăn mới, đang chờ bà giải quyết.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyThu Sep 25, 2014 11:52 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
VÕ TẮC THIÊN
- 5 -
Tiến thoái lưỡng nan
Từ ngày mùng chín tháng chín (năm 690) năm Thiên Thụ thứ nhất (năm 690 đăng cơ), đến ngày hai mươi chín tháng giêng (năm 705) năm Thần Long thứ nhất, thoái vị, Võ Tắc Thiên làm hoàng đế gần mười lăm năm. Trong mười lăm năm này, bà gặp hai khó khăn lớn: Làm thế nào để trị lý tốt Đại Chu và chọn người kế nhiệm vương triều.
Việc thứ nhất, bà làm khá thành công. Vương triều Võ Chu trong mười lăm năm đại thể là đất nước thanh bình, dân chúng yên vui. Tuy tốc độ phát triển kinh tế chưa bằng Trinh Quán (Thái Tông trị lỵ), mức độ phồn vinh xã hội chưa bằng Khai Nguyên (Huyền Tông trị lý), nhưng ít nhất cũng đạt mức: Kho tàng đầy ắp, dân số phát triển nhiều. Lãnh thổ đế quốc hơn hẳn thời Trinh Quán Đường Thái Tông. Bản thân nữ hoàng bệ hạ mọc thêm tóc, thêm thanh xuân, tháng chín năm Trường Thọ thứ nhất (năm 692), bà mọc thêm răng mới, (lúc này đã sáu mươi chín tuổi), mọc thêm lông mày mới (lúc này đã bảy mươi sáu tuổi). Võ Tắc Thiên, người đàn bà này đã trẻ ra qua đời sống chính trị và đấu tranh chính trị. Đúng là kỳ tích.
Một kỳ tích nữa: Trong lịch sử Trung Quốc không ít đế vương phải lo toan việc nước ở tuổi thanh và trung niên, vào những năm cuối đời, nếu không hồ đồ thì cũng sai lầm. Võ Tắc Thiên lại là ngoại lệ, Võ Tắc Thiên là hoàng đẽ năm sáu mươi báy tuổi, nhưng mãi đến năm tám mươi hai tuổi mới thoái vị, lúc nào đầu óc cũng tỉnh táo, tư duy nhạy bén, tinh lực dồi dào, phán đoán chính xác, không hề có hiện tượng già nua, cũng không hề thấy mệt mỏi. Chỉ sau khi bị đoạt mất quyền lực, đồng thời lại bị đoạt mất chàng trai sủng ái, chính trị và đàn ông đều không còn, bà mới già đi nhanh chóng.
Có thể, tất cả vì Võ Tắc Thiên là đàn bà. Tố chất thân thể và tố chất tâm lý của đàn bà tốt hơn của đàn ông, ít ra cũng được lâu hơn đàn ông. “Cao cao thì dễ gãỵ, trắng thì dễ ố”, tính cương của đàn ông thì dễ gãy, tính nhu của đàn bà bền lâu hơn. Cho nên đàn bà thường sống lâu hơn đàn ông, bà già cũng ít lẩm cẩm hơn ông già. Rõ ràng, trong lịch sử đã có nhiều thái hậu nổi tiếng, cũng thực dễ hiểu: Các vị đứng đầu Dương phủ, Giả phủ cũng đều là các bậc lão thái quân sáng suốt, mạnh mẽ.
Đương nhiên, Võ Tắc Thiên lợi hại hơn nhiều so với Xa thái quân trong “Dương gia tướng”, hoặc với Sử thái quân (Giả mẫu) trong “Hồng lâu mộng”, vì Võ Tắc Thiên là hoàng đế. Xưa nay, hoàng đế luôn được gọi là ‘Vua cha”, còn giữa cha và con luôn có một chút ngăn cách. Lúc này hoàng đế đổi là Võ Tắc Thiên, triều đình của Võ Chu, làm cho có không khí giữa người bà và đám con cháu. Cho nên quan hệ quân thần trong triều Tắc Thiên tương đối là hoà thuận.
Điều chủ yếu là bởi, Võ Tắc Thiên là nhà chính trị cao minh, còn có thêm sự “bổ trợ âm dương” vì nữ là vua, nam là thần. Sau khi đã thuận lợi đoạt được chính quyền là hoàng đế, Võ Tắc Thiên không hề vì thắng lợi mà hoa mắt. Bà thừa biết, giữ chính quyền khó khăn hơn lúc đoạt chính quyền, và tạo nên một xã hội thái bình thịnh thế càng khó khăn hơn giữ chính quyền. Muốn làm được điều đó, chỉ dựa vào cá nhân Võ Tắc Thiên là không xong, nên cần phải thu nạp nhiều nhân tài. Nhân tài không phải là để trang trí. Cần phải sử dụng nhân tài, trước hết là phải tôn trọng nhân tài, và điều tôn trọng lớn đối với nhân tài là thực bụng lắng nghe ý kiến họ. Hiển nhiên, muốn trị quốc phải chiêu hiền, chiêu hiền còn phải nghe lời can gián.
Có người cho rằng, Võ Tắc Thiên thành tâm nghe lời can gián là có phong thái vua hiền thời cổ, chưa hẳn là vậy. Tân Hoàng, Hán Vũ, Đường Thái Tông đều nghe lời can gián từ trẻ, lúc về già lại không. Võ Tắc Thiên lại khác, lúc trẻ thì không, lúc già mới nghe lời can gián. Vì lời can gián lúc trẻ, không muốn bà làm hoàng đế, bà nghe sao được? Lời can gián lúc già, luôn giúp bà làm hoàng đế, vì sao bà không nghe? Rõ ràng, Võ Tắc Thiên là người hiểu được đúng sai. Sở dĩ giai đoạn đầu phải hạn chế ngôn luận, cấm phê phán, vì luôn là những câu nói khó lọt tai, như “gà mái gáy sáng”, đành phải bịt miệng mọi người lại để tránh phiền hà.
Chẳng trách, Võ Tắc Thiên lúc này lại khoan dung nhiều với những biểu hiện của phê phán. Con người Võ Tắc Thiên luôn thích nghe những “tin vui”. Tháng chín, năm Thánh Lịch thứ mười một (năm 699), có cây lê nở hoa, Võ Tắc Thiên hỏi quần thần: “Đây là tin vui gì?”. Chư thần đều nói: “Đó là đức của bệ hạ trùm cây cỏ”. Riêng phượng các thị lang Đỗ Cảnh Kiệm nói: “Đó không phải tin vui, mà là tội của thần. Vì trách nhiệm tể tướng là phò tá bệ hạ, hoà hợp âm dương. Nay có việc quái gơ, âm dương đảo lộn, vạn vật bất bằng, để có hoa lê nở vào mùa thu, đương nhiên đây là tội của thần”. Nói xong liền quỳ xuống, mong được Võ Tắc Thiên xử tội. Nữ hoàng vô cùng cảm động, nói: “Khanh đúng là tể tướng!”.
Không thể kể hết những việc như vậy. Tháng ba năm Tràng An thứ nhất, trời đổ tuyết lớn, tể tướng Tô Vị Đạo cho là tin vui, đưa trăm quan đi chúc mừng, duy có thị ngự sử Vương Cầu Lễ không bái, còn hỏi lại: “Nếu như tháng ba có tuyết lành, vậy tháng chạp sẽ có tuyết gì? Giữa xuân là lúc vạn vật đang hồi sinh, đột nhiên có tuyết lớn, chỉ có thể coi là tai hoạ, đâu phải là tin vui”. Võ Tắc Thiên tuy mất hứng, nhưng tỏ ra đã biết nghe, liền hạ lệnh không lên triều ba hôm, để biểu thị nỗi kinh hoàng khi trời có điều bất thường.
Xem ra, bà già đã bảy, tám mươi tuổi này không hề hồ đồ chút nào. Bà hoàn toàn biết rõ đâu là ý kiến chính xác, đâu là đồng ý kiến không đúng; và bà cũng hiểu, nhân tài nào dễ kiếm, nhân tài nào thì khó kiếm. Vương Cập Thiện vốn đã từ chức nghỉ ngơi, nhưng vì Khiết Đan quấy nhiễu, nên phải gọi ra làm thứ sử Hoạt Châu. Theo lệ, trước khi đi nhận chức phải đến từ biệt bệ hạ, Võ Tắc Thiên liền hỏi về sự được mất của triều đình. Vương Cập Thiện nói một thôi, đê xuất mười mây ý kiến. Võ Tắc Thiên liên thay đôi lệnh, giữ Vương Cập Thiện ở lại kinh thành làm quan nội sử. Võ Tắc Thiên đã phát hiện, đây là nhân tài hiểu biết toàn cục, nếu để làm quan địa phương thì không thoả, tài nhiều dùng ít. Quan lại nhiều người tham lam, nhưng Diêu Thọ nhận chức đại đô đốc phủ trưởng sử Ích Châu chưa bao lâu thì tình trạng đó đã hết. Lập tức Võ Tắc Thiên xuống chiếu khen ngợi, nói: “Dưới sương buốt mới biết trinh tùng tài giỏi, trước gió mạnh, mới hay kình thảo là quý”. Võ Tắc Thiên còn nói với người khác: Một người làm quan, muốn giữ mình trong sạch, có lẽ không khó, nhưng có thể làm cho liêu thuộc đều thanh liêm, e không dễ, chỉ có Diêu Thọ được coi là liêm, đúng là nhân tài khó kiếm.
Chỉ cần là nhân tài hiếm thấy, Võ Tắc Thiên đều trọng dụng hết, bất kể là xuất thân thế nào, môn đệ, học thức ra sao. Tiết Quý Sường vốn là dân áo vải, vì đã dâng một tấu chương rất khá, nên được bổ nhiệm làm giám sát ngự sử. Tiết Quý Sưởng không phụ thánh ân, đã làm được nhiều việc. Tướng quân Hầu Vị Hư sợ địch, không dám đánh, đã hoang báo quân tình, nói quân địch có hổ dữ rắn độc án trước trận. Tiết Quý Sưởng lập tức chém đầu Hầu Vị Hư trước ba quân, chấn chỉnh quân uy. Huyện uý Ngô Trạch tham ô tàn bạo, hoành hành trái phép nước, trưởng quan trọng châu không có biện pháp nào. Tiết Quý Sưởng vừa đến Hà Bắc, đã lập tức cho bắt Ngô Trạch, dùng gậy đánh chết, dân chúng vỗ tay sung sướng. Sau này, ở đâu có kẻ khó trị, Võ Tắc Thiên liền phái Tiết Quý Sưởng tới đó. Tiết Quý Sưởng xuất thân bình dân, dần dà đã trơ thành viên quan có năng lực, nổi tiếng trong triều.
Thậm chí là con cháu kẻ thù, tội nhân, nếu có tài, đều được Tắc Thiên hoàng đế trọng dụng, như Thượng Quan Uyển Nhi, Quảng Vũ Công. Ông bác của Quảng Vũ Công từng phạm tội giết người, ông nội Thượng Quan Uyển Nhi là Thượng Quan Nghị từng là “chủ mưu” âm mưu phế bỏ Võ Tắc Thiên năm nào, nhưng nữ hoàng bệ hạ không hề kỳ thị với con cháu họ. Vốn có lòng bao dung độ lượng, lại có mắt tinh nhìn người, Võ Tắc Thiên nhanh chóng có được hàng loạt nhân tài kiệt xuất, văn có thể trị quốc, võ có thể an bang, và trong sô đó, Địch Nhân Kiệt là ưu tú nhất.
Địch Nhân Kiệt, tự Hoài Anh, người Thái Nguyên, Tinh Châu, cùng quê với Võ Tắc Thiên - người Văn Thuý, Tinh Châu. Địch Nhân Kiệt là cái tên không xa lạ với người Trung Quốc và nhiều người nước ngoài. Vì không chỉ người Trung Quốc mới có cuốn “Địch công án”, hơn nữa còn có một người Hà Lan viết không ít tiểu thuyết trinh thám về Địch Nhân Kiệt. Địch Nhân Kiệt không chỉ là một thám tử kiệt xuất, một pháp quan chân chính mà còn là một chính trị gia ưu tú. Địch Nhân Kiệt lầu thông kinh sử, hình luật, dáng vẻ đường hoàng. Làm quan, ông yêu dân như con, không sợ cường quyền; làm thần, ông trung trinh hết mực, chăm lo việc nước; làm người ông chân thành hữu nghị, thẳng thắn cương nghị; xử sự thì nhạy biến quyền biến, túc trí đa mưu. Hiếm có nhà chính trị nào có được nhiều ưu điểm như Địch Nhân Kiệt. Đúng như Lâm Ngữ Đường từng nói: “Địch Nhân Kiệt bình tĩnh, nhẫn nại, trí tuệ, nhãn quang đều không yếu hơn Võ hậu. Địch Nhân Kiệt chính là khắc tinh của Võ hậu^”.
Nhưng quan hệ quân thần giữa Võ Tắc Thiên và Địch Nhân Kiệt lại rất tốt, nhất là mấy năm cuối cùng khi Địch Nhân Kiệt là tể tướng. Vào ngày hai mươi sáu tháng chín (năm 691) năm Thiên Thụ thứ hai, Địch Nhân Kiệt nhận chức tể tướng. Đến ngày hai mươi sáu tháng chín (năm 700) năm Cửu Thị thứ nhất, vừa tròn chín năm, Địch Nhân Kiệt tạ thế! Trong thời gian chín năm, thực tế Địch Nhân Kiệt là tể tướng chưa đến bốn năm. Tháng giêng (năm 692) năm Trường Thọ thứ nhất, Địch Nhân Kiệt bị Lai Tuấn Thần vu cáo hãm hại, bị giam vào ngục. Gặp đại nạn nhưng không chết, chỉ bị giáng làm Bành Trạch huyện lệnh, đến tháng mười nhuận (năm 697) năm Thần Công thứ nhất, ông được phục hồi chức tể tướng. Sau khi gặp nạn và ba năm cuối cùng là tể tướng, Võ Tắc Thiên càng thêm kính trọng, càng thêm quý mến, càng thêm tín nhiệm Địch Nhân Kiệt. Võ Tắc Thiên đã tiếp thu phần lớn những phê phán, kiến nghị, ý kiến của Địch Nhân Kiệt. Như năm Cửu Thị thứ nhất, bà đã tiếp thu ý kiến của Địch Nhân Kiệt, huỷ bỏ quyết định tập kết vật tư đắp tượng Phật, còn nói: “Ông dạy trẫm làm điều thiện, làm sao có thể trái lời?”. Võ Tắc Thiên luôn trọng dụng phần lớn số quan lại do Địch Nhân Kiệt tiến cử, trong đó có đến hơn chục công khanh. Võ Tắc Thiên còn tự tay may một chiếc áo dài, trên ghi mười hai chữ: “Phô chính thuật, giữ thanh cần, thăng hiển vị, khen tướng thần”, ban tặng Địch Nhân Kiệt. Thường ngày, mỗi khi gặp mặt, thường gọi là “quốc lão”, là chuyện chưa từng có ở triều Đường. Mỗi khi lên triều, Võ Tắc Thiên không để Địch Nhân Kiệt phải quỳ bái, còn nói, mỗi lần nhìn quốc lão quỳ bái, lòng dạ thấy không nỡ. Sau khi Địch Nhân Kiệt tạ thế, Võ Tắc Thiên buồn khóc không thôi, còn nói, quốc lão ra đi, tiện đường luôn trống vắng. Sau này, mỗi khi gặp chuyện khó giải quyết, Võ Tắc Thiên thường lặng lẽ thở dài. Trời đã cướp mất quốc lão! Trời đã cướp mất quốc lão của trẫm rồi!
Quan hệ như cá với nước của Võ Tắc Thiên và Địch Nhân Kiệt là hoàn toàn có lợi cho sự sáng suốt về chính trị của Võ Tắc Thiên và sự thông minh về chính trị của Địch Nhân Kiệt, nhất là mấy năm sau năm Thần Công thứ nhất, hai người tuổi đã cao, đều biết sẽ không còn sống được bao lâu nữa, nên rất mong cùng nhau đồng tâm hiệp lực, làm tốt một số việc. Võ Tắc Thiên hiểu rõ, muốn chỉnh đốn triều cương, trị lý thiên hạ thì không thể thiếu được những nhân tài rường cột, vừa hết mực trung thành vừa thẳng thẩn hiền hoà. Địch Nhân Kiệt đúng là người như vậy. Xưa nay, Địch Nhân Kiệt chưa từng phản đối Võ Tắc Thiên. Dù Võ Tắc Thiên có phóng túng dâm dật, lạm sát người vô tội, ông cũng chưa từng phản đối. Địch Nhân Kiệt lo giữ vững cương vị, lo làm tròn trách nhiệm, gắng sức giảm thiểu những tổn thất do bọn khốc lại gây ra. Đây chính là điểm thông minh ở Địch Nhân Kiệt, biết mình quan chưa cao đức chưa lớn, người ít, nói chẳng thấm vào đâu, nên phản đối là vô ích, chi bằng giữ nguyên lực lượng, yên lặng chờ thời. Võ Tắc Thiên thay Đường xưng đế, Địch Nhân Kiệt không giữ mãi thái độ phản đối, mà tích cực hợp tác, chủ động tham dự, có nhiều cống hiến và xây dựng. Theo ý Địch Nhân Kiệt, việc Võ Tắc Thiên làm hoàng đế, có ngăn cũng không ngăn nổi. Chỉ cần Võ Tắc Thiên có thể trị lý tốt đất nước (Võ Tắc Thiên có tài về mặt này) thì đấy chẳng phải phúc của trăm họ sao, việc gì cứ phải là con trai họ Lý? Vì vậy, cùng người khác ngăn cản Võ Tắc Thiên, không bằng giúp Võ Tắc Thiên làm hoàng đế tốt, đó mới là người có trách nhiệm với dân với đất nước. Huống chi, Võ Tắc Thiên rồi cũng phải chết, tới lúc đó có thể trả chính quyền lại cho Lý Đường, còn mình thì mãi mãi vẫn là một trung thần. Vì vậy, cần phải hợp tác với Võ Tắc Thiên, để sau này có tiếng nói tốt hơn trong việc lập tự, để có sự chuẩn bị tốt hơn về tổ chức, về cơ sở cho việc bàn giao chính quyền sau này. Cách làm, cách nghĩ của Địch Nhân Kiệt đã thể hiện ông là chính trị gia kiệt xuất, trí tuệ sáng suốt, biết nhìn xa, trông rộng.
Chăng có cách gì để biết, Võ Tắc Thiên có hiểu rõ những suy nghĩ của Địch Nhân Kiệt hay không? Nhưng từ lâu Võ Tắc Thiên đã chú ý đến nhân phẩm và tài trí của Địch Nhân Kiệt. Địch Nhân Kiệt sinh vào năm (Tuỳ) Đại Nghiệp thứ ba (năm 607), hơn Võ Tắc Thiên bảy tuổi, trước khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, Địch Nhân Kiệt từng là pháp tào đô đốc phủ, đại lý thừa, thị ngự sử, là thứ sử Ninh Châu và Dự châu. Nghe nói, khi là đại lý thừa, mới đến nhận chức một năm, Địch Nhân Kiệt đã xử lý một vạn bảy ngàn vụ án tồn đọng, không một ai oan uổng, án xử công minh, dứt điểm, rõ ràng và nổi tiếng. Lúc là thứ sử Ninh Châu, Địch Nhân Kiệt được trăm họ ủng hộ, họ còn tự nguyện khắc đá lập bia cho Địch Nhân Kiệt, năm Thuỳ Củng thứ tư (năm 688), Việt vương Lý Trinh mưu phản, được dẹp yên, Võ Tắc Thiên phái Địch Nhân Kiệt làm Thứ sử Dự Châu, tra xét dư đảng của Lý Trinh. Địch Nhân Kiệt đến nhiệm sơ phát hiện thấy, tể tướng Trương Quang Phụ - lãnh binh bình phản, đã cho bắt hơn năm ngàn người, liên quan đến sáu, bảy trăm gia đình, chờ Địch Nhân Kiệt đến để hành hình. Lập tức Địch Nhân Kiệt sai tháo gông cho số người đó và tấu gấp về thái hậu: “An mưu phản liên quan đến nhiều người như vậy, không khỏi đã bắt nhầm không ít, thần không dám vi phạm thánh ý thương yêu dân chúng của bệ hạ, nhận nguy hiểm thay phản tặc có lời, mong bệ hạ mở cho một đường thoát”. Võ Tắc Thiên phê chuẩn tấu chương của Địch Nhân Kiệt, xét xử lại và cho đầy số người đó ra biên cương. Số can phạm vừa thoát chết khi đi qua Ninh Châu đã dừng lại thắp hương vái lạy trước tấm bia công đức mà dân chúng Ninh Châu vừa tạo dựng. Họ khóc lóc, nói: Chính Địch công đã cho chúng ta sống!”. Nhưng Địch Nhân Kiệt lại bị giáng là Tư Mã Lạc Châu vì đã đắc tội với Trương Quang Phụ.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptyThu Sep 25, 2014 2:43 pm

Việc đó nhất định đã để lại ấn tượng sâu sắc cho Võ Tắc Thiên. Vì vậy, một năm sau khi lên ngôi, Võ TắcThiên cho điều Địch Nhân Kiệt về kinh thành làm tể tướng. Võ Tắc Thiên nói với Địch Nhân Kiệt, các đại thần trong triều đều tán thưởng nền chính trị tốt lúc khanh ở Nhữ Nam, nhưng cũng có người lại nói xấu khanh, khanh muốn biết đó là ai không? Địch Nhân Kiệt nói, thần không muốn biết. Không biết vẫn hay hơn, vẫn có thể quan hệ bình thường với người đó. Võ Tắc Thiên vừa nghe đã lấy làm ưng ý. Có thể, chính vì Võ Tắc Thiên rất có cảm tình với Địch Nhân Kiệt, cho nên bọn Lai Tuấn Thần nhiều lần vu cáo, hãm hại Địch Nhân Kiệt nhưng không có kết quả. Sau khi Lai Tuấn Thần chết được bốn tháng, Địch Nhân Kiệt lại trở về với chức tể tướng.
Địch Nhân Kiệt, người nhận lại chức tướng, đã trở thành “Kim cương rắn chắc” sau mấy chục năm tôi luyện trong gió mưa bão tuyết. Trong những năm tháng đã qua đó, rất ít người thoát khỏi bàn tay ma quái của Lai Tuấn Thần, chỉ có Địch Nhân Kiệt yên ổn thoát hiểm, còn cứu thêm được sáu vị đại thần có cùng án với mình là Nguỵ Nguyên Trung, Thôi Tuyên Lễ, Lô Hiến, Nhiệm Tri cổ, Bùi Hành Bản và Lý Tự Chân. Họ bị vu khống là mưu phản, bị xử chém đầu và diệt tộc, nhưng cuối cùng chỉ bị giáng quan hoặc lưu đày. Đây cũng chính là lập luận thông dụng nhất của nền chính trị chuyên chế. Bắt anh cũng đúng và thả anh cũng đúng, cho nên xử nhẹ cũng là hợp lý. Đại nạn nhưng không chết, thế là đủ rồi.
Chính nhờ và trí tuệ và mưu kế, nên Địch Nhân Kiệt mới từ chỗ chết mà sống. Lúc vừa mới bị bắt, Địch Nhân Kiệt đã khai luôn: “Đại Chu cách mệnh, tiểu dân là quan nhà Đường, mưu phản là thực, tình nguyện chịu chết”. Trừ Nguỵ Nguyên Trung ra, mấy người khác đều nói giống như Địch Nhân Kiệt. Bọn Lai Tuấn Thuần hết sức mừng rỡ, không hề tốn sức mà đã giải quyết xong một án lớn, bọn chúng đã không mấy chú ý tới vụ án, cho giam họ vào ngục, và trông nom cũng không chặt bằng trước. Thế là Địch Nhân Kiệt đã lén viết thư cho Võ Tắc Thiên, tìm cách nhờ người trao thư cho nữ hoàng bệ hạ. Võ Tắc Thiên xem thư và cảm động, cho gọi Lai Tuấn Thần đến, bảo: “Bọn Địch Nhân Kiệt đều là quan trung lương. Ngươi phải thẩm tra lại, không được dùng hình, phải xử lý công bằng”. Lai Tuấn Thần cảm thấy sự việc đă có vấn đề, nhưng không biết là vấn đề gì, liền nguỵ tạo ra tờ biểu tạ tội của Địch Nhân Kiệt và mấy người khác trình lên Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên càng thêm nghi ngờ, liền triệu kiến số phạm quan và tử tội đó. Địch Nhân Kiệt và mấy người khác nhất loạt quỳ trước Võ Tắc Thiên và đồng thanh phủ nhận mưu phản. Võ Tắc Thiên hỏi: “Đã không mưu phản, sao lại thừa nhận?”. Địch Nhân Kiệt gượng cười, nói: “Nếu không thừa nhận e đã phải chết sớm, đâu còn dịp được thấy bệ hạ!”. Võ Tắc Thiên lại hỏi: “Thế sao còn phải dâng biểu tạ tội!”. Địch Nhân Kiệt nói: “Chúng thần có viết gì đâu”. Võ Tắc Thiên liền sai lấy biểu tạ tội so với bút tích của mấy vị đại thần, chân tướng đã được sáng tỏ. Đến nước này thì mọi mánh khóe của Lai Tuấn Thần đã hết tác dụng.
Nhưng Võ Thừa Tự lại nhất quyết phải giết Địch Nhân Kiệt, lý do là bọn họ không mưu phản, nhưng là loại nguy hiểm, không nên giữ lại. Võ Tắc Thiên đã có tính toán, biết Địch Nhân Kiệt không nguy hiểm với mình, nhưng Võ Thừa Tự thì chưa biết thế nào. Võ Thừa Tự là cháu Võ Tắc Thiên, tự cho rằng mình công lao lớn nhất khi “Đại Chu cách mệnh”, lại lớn tuổi nhất trong số tông thất Võ thị, từng được tập phong là Chu Quốc công, xứng đáng là hoàng thái tử. Đáng tiếc, hắn không hề có chút ưu điểm nào, không thể vực dậy nổi. Hắn vô đức, vô tài, không đầu óc, không tôn nghiêm, xử sự kém, trông không có tướng làm vua mà giống phường đáng chết, ai thấy cũng chê. Võ Tắc Thiên còn hai người cháu nữa, Võ Tam Tư và Võ Ý Tông, đều là loại biết một không biết hai, không có chút nào gọi là đầu óc chính trị, đều là phường kém cỏi. Nhiều lúc nữ hoàng bệ hạ cũng bực tức vì lũ cháu chắt chịu thua kém, mà chẳng biết phải làm gì.
Võ Thừa Tự muốn làm thái tử, nhưng gần như cả triều đều phản đối. Trước hết có tể tướng Lý Chiêu Đức bước ra phản đối. Năm Thiên Thụ thứ hai (năm 691), có người Lạc Dương tên là Vương Khánh Chi, theo ý của Võ Thùa Tự đã tụ tập một số kẻ vô lại thành thị, vào cung dâng thư, kiên quyết đòi lập Võ Thừa Tự làm thái tử. Lúc đầu, Võ Tắc Thiên còn nể mặt bọn chúng. Nhưng bọn này là một lũ không có mắt, không phân biệt phải trái, cứ cách năm, ba hôm lại đến làm ầm ĩ, và cứ ì ra đấy không chịu đi, cuối cùng Võ Tắc Thiên đã nổi giận, lệnh Lý Chiêu Đức thưởng cho chúng mấy chục gậy. Lý Chiêu Đức quyền uy nhất triều, lập tức thi hành lệnh, cho tay chân cứ nhè người mà đánh. Tại hiện trường, Vương Khánh Chi đã phải chết, tiếp đến Lý Chiêu Đức còn tâu với Võ Tắc Thiên: “Thiên hoàng (chỉ Lý Trị) là chồng của bệ hạ, hoàng tử (chỉ Lý Đán) là con của bệ hạ. Bệ hạ có cả thiên hạ, nên truyền cho con để cơ nghiệp bền vững muôn đời, đâu có lý đẽ cháu được tiếp nỗi!. Võ Tắc Thiên suy nghĩ và thấy không sai, việc lập tự đã tạm gác lại.
Về phía Võ Thừa Tự thì hết chịu nổi. Thừa Tự hiểu được, nếu không trừng trị bọn đại thần cương trực trung trinh này thì mình không được làm hoàng thái tử. Thế nên có chuyện Võ Thừa Tự liên kết với Lai Tuấn Thần vu cáo hãm hại Địch Nhân Kiệt, về sau Lý Chiêu Đức cũng bị giáng chức, lưu đày vào năm Diên Tải thứ nhất (năm 694) và bị giết cùng ngày với Lai Tuấn Thần. Nhưng Võ Thừa Tự không biết rằng, Địch Nhân Kiệt bị xử trí nhưng không chết, lại trớ về nhận chức tể tướng. Năm Thánh Lịch thứ nhất (năm 698), cũng tức là ngày mười một tháng tám, năm thứ hai kể từ lúc Địch Nhân Kiệt trơ lại nhận chức tể tướng, Võ Thừa Tự đã chết trong sự tuyệt vọng, không người tiếc thương.
Địch Nhân Kiệt là “liệt sử cuối đời, tráng khí vẫn còn”, một đám nắng chiều đỏ. Lúc này Địch Nhân Kiệt đã là ông già chín mươi, nhưng tinh lực vẫn dồi dào, đầu óc vẫn vô cùng tỉnh táo. Địch Nhân Kiệt biết mình không còn nhiều thời gian, vẫn còn hai việc phải làm gấp. Thứ nhất, phải nhanh chóng lập thái tử là người họ Lý. Thứ hai, phải gắng hết sức, nhanh chóng đưa người có thể phó thác hậu sự vào chính phủ, nắm giữ chức vụ quan trọng. Sự kiện thứ nhất đã xong với sự nỗ lực của các đại thần hiểu biết trong triều. Số người này, ngoài Lý Chiêu Đức đã nói ở phần trước, còn có Vương Phương Khánh, Vương Cập Thiện, Cát Tự, thậm chí cả hai “tình nhân” của Võ Tắc Thiên, là anh em Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông. Năm Thánh Lịch thứ nhất (tháng 3 năm 698), Võ Tắc Thiên lấy cớ trị bệnh, để triệu Lư Lăng vương Lý Hiển (tức là Trung Tông bị phế) từ ngoài về Thành Đô, Lạc Dương, Võ Tắc Thiên cho giấu Lý Hiển ở trong cung rồi triệu kiến Địch Nhân Kiệt. Lần nữa, Địch Nhân Kiệt lại khẳng khái trình bày, Võ Tắc Thiên đã cắt lời, gọi Lý Hiển từ trong trướng ra, khẩn thiết nói với Địch Nhân Kiệt: “Từ nay trẫm giao vị vua này cho khanh!”. Lại nói với Lý Hiển: “Không nhanh chóng bái tạ quốc lão, chính quốc lão đã để con phục vị”.
Địch Nhân Kiệt thực hiện sự kiện thứ hai cũng rất hay. Võ Tắc Thiên muốn Địch Nhân Kiệt tiến cử kỳ tài. Địch Nhân Kiệt liền tiến cử Trương Giản Chi. Địch Nhân Kiệt nói: “Nếu bệ hạ cần người viết lách giỏi, đã có Lý Kiều, Tô Vị Đạo từng là tể tướng. Nếu bệ hạ cần người văn có thể là lãnh tụ quần thần, võ có thể thống lĩnh ba quân, chỉ có Trương Giản Chi”. Mấy hôm sau, Võ Tắc Thiên lại muốn Địch Nhân Kiệt tiến cử người hiền. Địch Nhân Kiệt nói: “Thần đã tiến cử Trương Giản Chi rồi”. Võ Tắc Thiên nói, “Trẫm đã để Gián Chi làm Tư mã Lạc Châu (kinh đô vệ thứ tư lệnh)”. Địch Nhân Kiệt tấu: “Tư mã là chưa sử dụng hết tài năng”. Võ Tắc Thiên gật đầu, tiếp đó bổ nhiệm Trương Giản Chi làm tể tướng. Ngoài ra, Diêu Sùng, Thôi Huyền Vĩ, kính Huy, Hoàn Nhan Phạm, Viên Nộ Kỷ đều được Địch Nhân Kiệt tiến cử để đảm nhiệm những chức vị quan trọng.
Hai nước cờ của Địch Nhân Kiệt đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến cục diện chính trị sau này. Lúc này Địch Nhân Kiệt đã sắp xếp mọi việc thoả đáng, đã có thể ngậm cười nhắm mắt. Địch Nhân Kiệt biết rõ, một khi thời cơ đến, bọn Trương Giản Chi sẽ phát động chính biến nơi cung đình, phục hồi vương triều Đại Đường. Đúng như lời Lâm Ngữ Đường, Địch Nhân Kiệt - một tay trinh thám cỡ lớn đã giấu kín đường dây phá án, sắp xếp kết cục câu chuyện, ngay cả những việc bắt can phạm, cũng phải phiền ông ra tay giúp.
Lúc này, Võ Tắc Thiên đã vướng vào chiếc vòng của Địch Nhân Kiệt, nhưng Võ Tắc Thiên cũng đã hết cách.
Thực tế, vấn đề lập tự là vấn đề làm Võ Tắc Thiên đau đầu nhất. Bà có hai người con và ba người cháu, con họ Lý, cháu họ Võ, có thể nói, diện lựa chọn là rất lớn, kỳ thực, lập ai cũng đều không thích hợp. Lập con làm người kế thừa vậy, khác nào đem giang sơn trả lại cho chồng là Lý Trị; lập cháu, lại khác nào đem giang sơn cho hai người anh, Võ Nguyên Sảng và Võ Nguyên Khánh, mà Võ Tắc Thiên lại rất ghét hai người này. Hai người này không chỉ bị Võ Tắc Thiên phán tội, còn bị đổi họ. Không còn là họ Võ mà là họ Phúc (nghĩa là rán). Không thể giao giang sơn cho họ! Nhưng nếu không trả lại cho chồng, cũng không cho anh, vậy có thể giao cho ai?
Lúc Võ Tắc Thiên hùng hổ tiến tới đoạt lấy đế vị, bà chưa nghĩ đến những vấn đề này. Lúc đó bà chỉ nghĩ phải làm hoàng đế, mà chưa nghĩ đến sau khi là hoàng đế phải làm gì nữa. Đương nhiên, bà cũng chưa hề nghĩ, một người đàn bà muốn lập triều đổi đại thì khó khăn ở đâu? Lúc này bà đã hiểu. Sự việc không khó ở chỗ, một người đàn bà có thể ngồi lên bảo toạ hoàng đế không, mà khó ở chỗ một vương triều của người đàn bà sẽ tiếp tục ra sao? Và bây giờ thì bà đã hiểu, điều đó là không thể được. Võ Tắc Thiên cần phải trao trả lại vương triều đó cho đàn ông. Hiển nhiên, dù người đàn ông đó là người bên nội hay bên ngoại, đều là phản bội con đường “cách mệnh của Võ Tắc Thiên. Thế là, Võ Tắc Thiên giống như bà chú lớn, bằng vào sự thông minh tài trí và sự phấn đấu gian khổ để giành được một sản nghiệp lớn, bây giờ không biết, sau khi qua đời sẽ phải trao di sản đó cho ai là tốt nhất. Bà thực sự khổ tâm.
Địch Nhân Kiệt thấu hiểu nỗi khổ tâm của nữ hoàng. Địch Nhân Kiệt bóng gió ngầm bảo với nữ hoàng đế độc nhất vô nhị của ngàn năm: Thành quả “cách mệnh” của bệ hạ rồi sẽ ra sao, lúc này chưa thể nói được, nhưng có một vấn đề rất “hiện thực”, bệ hạ cần suy nghĩ, sau lúc bệ hạ trăm tuổi, ai sẽ là người bưng cơm, ai sẽ là người hương khói? Địch Nhân Kiệt nói: “Mong bệ hạ nghĩ cho, cô cháu và mẹ con, ai thân thiết hơn ai? Nếu bệ hạ lập con làm tự, trăm ngàn năm sau vẫn có thể ngồi hưởng ở thái miếu, cúng tế mẹ của đế vương mãi mãi. Nếu như lập cháu làm tự, thần chưa hề nghe, hoàng đế nào đó lập miếu cho cố. Trước đây Lý Chiêu Đức đă nói vậy, nhưng nghe Địch Nhân Kiệt nói còn có phần thân thiết và thực tế hơn. Võ Tắc Thiên tạm thời phải vứt bỏ “lý tưởng cách mệnh” của mình, chuyển hướng, nghĩ tới vấn đề khác: Cuối cùng thì nên làm mẹ hay làm cô của hoàng đế đời sau?
Câu trả lời gần như đã rõ ràng: Làm mẹ đương nhiên là tốt hơn. Dù là Võ Thừa Tự hay Võ Tam Tư, khi làm hoàng đế, họ chỉ có thể lập miếu cho Võ Nguyên Sảng, Võ Nguyên Khánh, đâu đến phần Võ Tắc Thiên. Nếu vậy, mình sẽ chẳng là gì, sẽ chẳng có gì? Võ Tắc Thiên không chịu để mất tất cả, không chịu sau này sẽ là quỷ đói, không người cúng tế, không người quan tâm.
Nhưng nếu chuyển hoàng vị cho con bà cũng chưa đành lòng. Vì vương triều của bà là họ Võ, con bà lại mang họ Lý. Đương nhiên, con bà lúc này đã mang họ Võ. Nhưng chúng có thể đổi đi thì cũng có thể đổi lại. Bắt chúng coi tổ tông Võ gia là tổ tông, không coi Lý Uyên, Lý Thế Dân là tổ tông, là không được. Và như vậy, mệnh của bà coi như là cách uổng.
Nếu muốn “cách mệnh” tới cùng, thay đổi truyền thống chỉ có đàn bà mới là hoàng đế, chỉ còn cách chuyển ngôi vị cho con gái. Nhưng hoàn toàn không thể. Truyền ngôi cho con trai, giang sơn sẽ thuộc họ Lý bên nhà chồng; truyền ngôi cho cháu, giang sơn sẽ thuộc họ Võ bên nhà mẹ; truyền ngôi cho con gái, chỉ sợ giang sơn sẽ thuộc họ của con rể, lại càng tệ hại hơn. Việc xác định huyết thống theo dòng giống của cha, việc thừa kế tài sản, cúng tế tổ tiên là lịch sử của mấy ngàn năm, Võ Tắc Thiên không thể vứt bỏ truyền thống đó.
Lúc này, Võ Tắc Thiên mới phát hiện thấy mình đang đứng trước một vấn đề rất hóc búa, là văn hoá truyền thống hay truyền thống văn hoá. Võ Tắc Thiên thân phận là đàn bà đã làm việc của đàn ông, như vậy là trái với truyền thống. Bất kỳ là ai phản truyền thống sẽ bị truyền thống phản lại. Võ Tắc Thiên là kẻ phản bội truyền thống, lúc này đã phải đầu hàng trước truyền thống, trở thành bại tướng dưới tay truyền thống.
Thực tế thì ngay từ đầu, Võ Tắc Thiên đã lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Vì Võ Tắc Thiên làm việc xưa nay chưa từng có, đã không có chút kinh nghiệm nào, lại không có lực lượng nào chi viện, giúp đỡ. Trong tình trạng đó, Võ Tắc Thiên chỉ có thể mượn sức mạnh của truyền thống để phản truyền thống, bao gồm cả việc sử dụng quan lại như Địch Nhân Kiệt, cả việc lợi dụng quyền uy của đế vương, tài sản của đất nước… nhưng Võ Tắc Thiên càng lợi dụng truyền thống, càng thấy mình xa rời mục tiêu, nhưng nếu không lợi dụng truyền thống thì không thể hoàn thành được công việc. Võ Tắc Thiên rất muốn tiến tiếp, “cách mệnh” tới cùng, nhưng lại thấy mình như đang đi vào ngõ cụt, hết đường tiến.
Chúng ta cũng không thể làm rõ cuối cùng Võ Tắc Thiên đã hiểu được vấn đề hay không, chỉ biết vào ngày hai mươi tư tháng giêng (năm 705) năm Thần Long thứ nhất, Võ Tắc Thiên chính thức rời bỏ quyền lực, đem giang sơn mà mình dốc sức trị vì suốt mấy chục năm giao cho một kẻ bất tài kém cỏi. Đương nhiên, việc bàn giao này có phần miễn cưỡng. Trước đó hai hôm, nhân lúc Võ Tắc Thiên ốm nằm trên giường đám triều thần vừa nắm chính quyền vừa nắm quân quyền đã vu cho Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông là mưu phản, lệnh cho vũ lâm quân bao vây cung Nghênh Tiêu mà Võ Tắc Thiên đang ở, không nói một lời mà lấy đầu hai gã “sủng nam” dung mạo như đoá sen đỏ, xách đầu chúng đến ép bà phải giao đại quyền. Người cầm quân hôm đó chính là Thôi Huyền Vĩ mà Võ Tắc Thiên đã cất nhắc; người đã giết hai tên họ Trương kia là Lý Trạm, con của Lý Nghĩa Phủ. Ngoài ra, còn có hơn năm trăm tướng sĩ là tả hữu vũ lâm quân, ngày thường rất gần gũi. Người cầm đầu tất cả, là tể tướng Trương Giản Chi - người mà Địch Nhân Kiệt coi là “văn có thể là lãnh tụ quần thần, võ có thể thống soái ba quân”. Lúc này, Trương Giản Chi đang run rẩy đứng trước Lý Hiển bảo bối của Võ Tắc Thiên.
Ngày hai mươi sáu tháng mười một cùng năm, một ngày đông tê tái, Võ Tắc Thiên bị giam lỏng ở một nơi hào hoa mà tĩnh mịch, đã cô đơn nhắm mắt. Trước lúc lâm chung, Võ Tắc Thiên có để lại di ngôn, xá miễn Vương hoàng hậu, Tiêu thục phi, Chử Toại Lương, Hàn Viện, Liễu Thị và các gia tộc (quan tước của Trưởng Tôn Vô Kỵ đã có chiếu khôi phục và dự bồi Chiêu lăng vào năm Thượng Nguyên thứ nhất). Như vậy, Võ Tắc Thiên có thể được vui hơn. Lúc xuống Cửu Tuyền sẽ có thể “gặp nhau nhoẻn một nụ cười là hết cả ơn lẫn thù!”.
Võ Tắc Thiên còn có di ngôn: Bỏ đế hiệu, xưng hoàng hậu, táng ở Càn lăng, bên cạnh chồng là Cao Tông. Hơn nửa thế kỷ trước, lúc còn dâng hương lễ phật tại chùa Cảm Nghiệp, Võ Tắc Thiên đã viết bài thơ tình cho Lý Trị - người đã từng yêu thương cuồng nhiệt: “Nhìn son thành biếc nhớ bời bời, tiều tuỵ chi li bởi nhớ người. Chẳng tin so lại mà tuôn lệ, mở rương nghiệm lấy váy hồng tươi”. Nửa thế kỷ sau, không biết đã có bao người phải sụp lạy hoặc thất bại dưới chiếc váy màu thạch lựu ấy của nàng. Tận khi Võ Tắc Thiên cởi bó chiec váy màu thạch lựu, thay bằng trang phục của đế vương, Võ Tắc Thiên vẫn có ma lực, khiến người phải kính sợ, khiến nhân thần phải phục, khiến người ta phải si mê.
Lúc này, Võ Tắc Thiên lại phải mặc chiếc váy màu thạch lựu. Võ Tắc Thiên không thể chống lại nền văn hoá lâu đời. Người đàn bà muốn mạnh cả đời ấy không thể không cởi bỏ nam phục, thay bằng nữ y, rời bỏ thế giới của đàn ông, trở về với trời đất của đàn bà.
Võ Tắc Thiên chưa thể “cách mệnh” tới cùng. Nhưng, đó không phải là sai lầm của bà.
Võ Tắc Thiên sinh năm 624 mất năm 705, hưởng thọ tám mươi hai tuổi, là một người trường thọ.
Theo cuốn “Võ Tắc Thiên chính truyện” của ngài Lâm Ngữ Đường, cả đời Võ Tắc Thiên đã mưu sát chín mươi ba người (không kể những người thân thuộc phải chết theo), trong số đó có hai mươi ba người là người thân của bà, ba mươi tư người là tôn thất nhà Đường, ba mươi sáu người là triều thần (kể cả bọn chó săn). Trong số này có bao nhiêu người chết đích đáng, có bao nhiêu án oan, có bao nhiêu người bị Võ Tắc Thiên hại, có bao người do người khác vu cáo, món nợ này đành để lại, các nhà sử học sẽ tính tiếp.
Trước lăng Võ Tắc Thiên là một tấm bia không có chữ. Bia được khắc từ một phiến đá lớn, cao 3,5m, rộng 2,1m, dày l,49m nặng 9,8 tấn. Trên bia khắc một con ly (loại thần vật giống giao long) và rồng nhưng không có chữ có lẽ, chính Võ Tắc Thiên cũng không nói rõ được về mình. Có thể, Võ Tắc Thiên không muốn lưu lại một thứ gì, tuỳ người đời khen chê. Có thể Võ Tắc Thiên cũng không để ý xem người khác sẽ nói những gì.
“Trên bia không chữ khắc đầy chữ, ai người biết được cổ khôn nguyên?”. Đúng vậy thay.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptySat Sep 27, 2014 10:56 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
HẢI THỤY
- 1 -
Vị Quan nhiều lần bị bãi quan
Hải Thuỵ là quan thanh liêm. Nhưng được nổi tiếng là thanh liêm vì luôn bị bãi quan.
Rất nhiều người Trung Quốc trên bốn mươi lăm tuổi hiện nay đều biết tích “Hải Thuỵ bãi quan”. Năm 1966, người ta lấy việc phê phán vớ kịch mới về lịch sử Hái Thuỵ bãi quan làm ngòi nổ, dẫn tới cuộc “Đại cách mạng văn hoá” “chưa từng có trong lịch sử”. Đương nhiên, dù có hay không có Hải Thuỵ trong lịch sử và có thực Hải Thuỵ bị bãi quan hay không thì cái gọi là “Đại cách mạng văn hoá” vẫn nổ ra. Có điều, bằng cách đó người người nhà nhà đều biết về Hải Thuỵ. Mỗi lần nói đến Hải Thuỵ là nghĩ ngay đến bãi quan.
Con người Hải Thuỵ có duyên với bãi quan. Hải Thuỵ trải qua bốn triều vua: Chính Đức, Gia Tĩnh, Long Khánh, Vạn Lịch. Từ ngày mười tháng mười hai (năm 1554) năm Gia Tĩnh thứ ba mươi hai là làm giáo dụ (một loại học quan cấp thấp, ở huyện Nam Bình, phủ Diên Bình, Phúc Kiến) đến ngày mười bốn tháng mười (năm 1587) Vạn Lịch năm thứ mười lăm, ốm chết khi đang là hữu đô ngự sử của đô sát viện Nam Kinh. Hải Thuỵ có nửa cuộc đời lăn lộn nơi quan trường, trong thời gian đó có mấy lần bị bãi quan hoặc xin từ quan. Riêng trong hai năm làm quan ở Nam Kinh đã có hơn bảy lần cáo lão về quê; có một lần được nhàn rỗi nhất là mười sáu năm. Cứ thế mà tính, thấy Hải Thuỵ có ba mươi ba năm lăn lộn nơi quan trường thi một nửa thời gian là bị bãi quan. Nếu tính một cách chính xác hơn và lấy việc Hải Thuỵ bắt đầu được làm trưởng quan hành chính địa phương, là làm tri huyện Thuận An, Chiết Giang (năm 1558, năm Gia Tĩnh thứ ba mươi bảy) là khởi điểm, thì thời gian làm quan còn ngắn hơn và hơn nửa thời gian là bị bãi quan.
Có điều Hải Thuỵ vừa bị bãi vừa được thăng, và một lần bãi một lần thăng, quan chức ngày một cao. Lần thứ nhất bị bãi quan vào năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi mốt (năm 1562), bị miễn chức tri huyện Thuần An (quan thất phẩm), nhưng lại mau chóng được điều về huyện Hưng Quốc, phủ Cống Châu, Giang Tây, nửa năm sau được thăng lên chức ty chủ sự ở lô Hộ, Vân Nam, quan địa phương thành quan tỉnh, từ thất phẩm thăng lên lục phẩm. Lần thứ hai bãi quan là năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi lăm (năm 1566), lần này dài đến mấy tháng và còn phải vào tù. Sau khi ra tù được phục nguyên chức, về sau đổi là chủ ty chủ sự của võ khố, bộ binh, lại điều tiếp làm tỵ thừa ty thượng bảo (quan lục phẩm), rồi tự thừa đại lý tự (quan ngũ phẩm), hữu thông chính ty thông chính (quan tứ phẩm), cuối cùng thăng lên hữu thiên đô ngự sử (quan tam phẩm), khâm sai tổng đốc lương đạo, tuần phủ mười phủ úng Thiên, trở thành quan lớn nơi biên cương. Lần thứ ba bãi quan là năm Long Khánh thứ tư (năm 1570), lần này phải mười sáu năm sau mới lại xuống núi, trước hết là khôi phục lại chức hữu thiên đô ngự sử Nam Kinh, trên đường đi nhận chức lại được thăng là hữu thị lang lại bộ Nam Kinh, năm sau (năm Vạn Lịch thứ mười bốn, tức năm 1586), thăng làm hữu đô ngự sử đô sát viện Nam Kinh (quan nhị phẩm) trở thành quan viên cao cấp của vương triều Đại Minh. Lúc này, Hải Thuỵ đã là ông già bảy mươi ba tuổi, và học lực cũng như công danh của Hải Thuỵ chỉ là một cử nhân.
Điều đó khiến việc làm quan của Hải Thuỵ mang sắc thái huyền thoại. Và có một điều mà chúng ta vẫn chưa hiểu, cuối cùng Hải Thuỵ thuộc loại quan nào, tốt hay xấu. Nếu là quan tốt thì vì sao lại bị bãi miễn như vậy? Nếu là quan xấu thì vì sao lại được thăng hết lần này đến lần khác? Hoàng đế cũng được, quan trường cũng được, vậy họ thích hay không thích Hải Thuỵ?
Nếu đánh giá Hải Thuỵ theo tiêu chuẩn thông thường của người dân Trung Quốc khi nhìn nhận quan tốt hay xấu thì Hải Thuỵ đương nhiên là quan tốt. Tiêu chuẩn đó là thanh liêm. Hải Thuỵ thanh liêm ai ai cũng biết và đó hoàn toàn là sự thật. Trong những năm cuối đời, Hải Thuỵ là hữu đô ngự sử (giám sát bộ trưởng)(1) quan nhị phẩm, thế nhưng số tiền tích cóp được không đủ để làm lễ tang, phải nhờ vào sự giúp đỡ của đồng liêu. Một người làm quan đến hết đời mà không lo nổi hậu sự, được coi là “trong nhìn thấy đáy”.
Có ba cách nói về số di sản Hải Thuỵ để lại: Một là, nhiều người nói, còn lại một trăm năm mươi mốt lạng bạc trắng, gấm vóc mỗi thứ một súc. Hai là, một số người nói, “xem lại toàn bộ thấy có tám lạng vàng, một cuộn vải trắng, một ít quần áo cũ”. Ba là, người trong nhà nói, còn hai mươi lạng bạc trắng. Một con số quá nhỏ so với con số một trăm năm mươi mốt lạng. Người đời thường nói: “Tri phủ ba năm thanh liêm cũng có được mười vạn lạng bạc hoa tuyết”, mà tri phủ chỉ là quan tứ phẩm. Hơn trăm lạng bạc chưa đủ con số lẻ của gia sản bất cứ viên quan nhị phẩm nào, chưa nói tới Nghiêm Tung - vị quan gian. Năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi mốt (năm 1562), Nghiêm Tung bị hạ bệ, lúc khám nhà, riêng số bạc trắng đã có hơn hai trăm vạn lạng. Từ đó mới thấy danh tiếng Hải Thuỵ thanh liêm là có thực và là điều rất đáng quý.
Điều đáng quý hơn nữa là, Hải Thuỵ trước sau như một, giữ vững sự trong sạch của mình. Trên mâm cơm của Hải Thuỵ - lúc đã là tri huyện, chỉ có rau cỏ, những thứ mà Hải Thuỵ cùng người thân tăng gia thêm ở vườn sau, không mấy khi dùng đến rượu thịt. Nghe nói, chỉ một lần duy nhất Hải Thuỵ “xa xỉ”, mua hai cân thịt về làm lễ mừng thọ mẹ già (Hải Thuỵ là người con có hiếu). Việc này được coi là tin mới lan truyền trong giới quan trường, ngay cả tổng đốc Hồ Tôn Hiến nghe tin cũng hết sức kinh ngạc, nói với mọi người: “Các vị biết không, Hải Thuỵ mua thịt, mua hai cân thịt, những hai cân!”.
Sau khi Hải Thuỵ nhận chức tuần phủ Úng Thiên, bao gồm các hạt Úng Thiên, Tô Châu, Thường Châu, Trấn Giang, Tùng Châu, Huy Châu, Thiên Bình, Ninh Quốc, An Khánh, Trì Châu và châu Quảng Đức, những châu này hầu hết đều thuộc vùng Giang Nam quê hương của lúa gạo, cá mú trù phú. Địa vị lúc này khác xa với thời còn là tri huyện, nhưng Hải Thuỵ vẫn thanh liêm cần kiệm như cũ. Vừa đến nhiệm sở, Hải Thuỵ đã ban bố “đốc phủ hiến ước”, quy định, khi tuần phủ đi tuần thú các nơi, các quan phủ, châu, huyện không được ra ngoài thành nghênh tiếp, không được bầy tiệc chiêu đãi. Sau khi nghĩ đến và cũng muốn giữ một phần sĩ diện các quan viên triều đình, Hải Thuỵ đồng ý có bữa cơm công cán, có thể có gà, cá, thịt lợn… nhưng không được giết ngỗng và dùng rượu, không được vượt quá tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn là ở những nơi đắt đỏ được tiêu ba tiền, những nơi vật giá rẻ được tiêu hai tiền, than củi, dầu đèn, không được vượt quá các con số trên. Còn việc gọi các “kỹ nữ” đến bầu bạn, hoặc tổ chức các tiết mục vui sau khi cơm no rượu say, không nói, chắc mọi người cũng hiểu, Hải Thuỵ đều nghiêm cấm.
Hải Thuỵ thanh liêm đến mức mất hết cả tình lý, không ai hiểu được! Theo phong tục nơi quan trường thời đó, khi quan mới đến nhiệm sở, khi bạn bè được thăng chức, luôn có người mang lễ vật đến chúc mừng. Chỉ cần số lễ vật đó không quá lớn, nghĩ xem, đó là chuyện thường tình của con người. Nhưng Hải Thuỵ đã chẳng nghĩ ngợi gì cả mà công khai dán cáo thị, nói: “Ngày nay đã là quan triều đình thi phải khác với lúc ở nhà”, “kẻ thù người đáp, thật là phiền phức, bỏ đi không làm là hơn”. Sau này, Hải Thuỵ liền sai người trả lại lễ vật, ngay cả với bạn cũ Hạ Bang Thái, Thư Đại Du từ xa tới chúc mừng cũng không phải ngoại lệ. Đến như nhà công do triều đình cấp cũng không thèm hưởng. Trước khi lâm chung, số tiền củi lửa do bộ binh mang tới khoảng bảy lạng bạc trắng, Hải Thuỵ cũng cho trả về. Bảy lạng bạc trắng thực sự chẳng đáng là bao, nhưng Hải Thuỵ quyết không vì chút lợi mọn đó mà huỷ hoại sự thanh bạch cả đời của mình.
Là quan thanh liêm như vậy, đương nhiên, nhân dân trăm họ sẽ hết sức ủng hộ, còn bọn quan lại thì luôn thấy phản cảm. Bọn họ ngoài miệng không dám nói ra, nhưng trong lòng thì đầy hờn căm, ghen tức. Cứ nghĩ đến chuyện phải cộng tác, phải qua lại với Hải Thuỵ, ai nấy đã nổi cả da gà. Có một sự việc chứng minh rõ điều này: Lúc vừa có tin Hải Thuỵ được điều lên làm tuần phủ Úng Thiên, bọn quan lại mười phủ Úng Thiên gần như đã phát khóc. Không ít người cầu xin điều Hải Thuỵ đi nơi khác, thậm chí có người rời bỏ chức vị, từ bỏ chiếc mũ ô sa trên đầu. Đương nhiên, điều đó nói rõ, mọi người đã phải khiếp sợ trước quyền uy và sự thanh liêm của Hải Thuỵ, đồng thời cũng nói rõ, ở chốn quan trường thời đó, Hải Thuỵ luôn bị cô lập.
Hải Thuỵ thực sự không hiểu quy tắc nơi quan trường, nhưng ông cũng không phải là người làm bừa. Ngược lại, Hải Thuỵ lại quá nguyên tắc. Hải Thuỵ có hai nguyên tắc: Một là, lấy đạo đức được xiển phát từ “Tứ thư, Ngũ kinh” làm chuẩn tắc; hai là, lấy chính sách do hoàng đế Hồng Vũ chế định làm pháp lệnh. Trong hai nguyên tắc này không hề bảo, làm quan thì phải tham ô hủ hoá, dùng quyền chung để mưu đồ riêng, cũng không hề nói, muốn làm quan phải biết a dua theo, nói bốc đề cao, đưa đưa đón đón, mời cơm đãi khách. Những việc thánh nhân và Thái Tổ không nói là có thể làm, thì không thể làm. Còn như phong khí lúc này, không thể nói Hải Thuỵ không thể biến đổi, cũng không thể nói Hải Thuỵ nên thuận theo. Có người từng khuyên Hải Thuỵ, không nên quá cứng nhắc, cái gì có thể linh động thì nên linh động, cái gì thấy nên làm thì nên làm. Hải Thuỵ liền trừng mắt hỏi lại: “Giả sử, quan lại khắp nơi không làm, không linh động, sẽ không có việc thăng quan sao? Giả sử các quan lại khắp nơi đều không làm, không linh động, sẽ không có việc giáng chức sao?”. Người đó thấy Hải Thuỵ đầu óc cứng đơ, luôn “giả sử”, giả sử, hoàn toàn là tính khí thư sinh, không thể thuyết phục được, đành bỏ đi.
Hải Thuỵ luôn gắng sức làm theo lời dạy của thánh hiền, còn muốn đấu tranh, cải biến những phong tục đồi bại, cho dù đối phương chức vị cao tới đâu, khí thế mạnh đến chừng nào. Dù hắn là hổ dữ, Hải Thuỵ vẫn dám sờ vào mông hắn. Lúc Hải Thuỵ là huyện lệnh Thuần An, Hồ Tôn Hiến là tổng đốc. Quan cấp của tổng đốc và tri huyện quá khác biệt, khác gì trời với đất. Bản thân Hồ Tôn Hiến còn là đồng đảng với Nghiêm Tung, quyền tướng đương triều. Hồ Tôn Hiến quyền khuynh thiên hạ, khí thế ngút trời, lại là quan lâu năm, dân quan trong nước, hết thảy đều khiếp sợ nhưng Hải Thuỵ luôn coi như con nghé tơ. Con trai Hồ Tôn Hiến đến Thuần An, giễu võ giương oai, chỉ đông hét tây, không hài lòng với khoản đãi của dịch trạm, đã đánh gục dịch thừa. Hải Thuỵ không hề khách khí, đã cho bắt hắn, giải đến nha môn tổng đốc, tịch thu sung công cả ngàn lạng bạc trên người hắn. Hải Thuỵ còn có công văn gửi đến Hồ Tôn Hiến, nói: Từ lâu đã nghe danh tổng đốc đại nhân là người tiết vọng thanh cao, yêu dân như con, dạy con thật nghiêm. Kẻ này phẩm hạnh xấu xa, hành động bừa bãi, dám giả mạo, xưng là Hồ công tử, số bạc tìm được trong người hắn hẳn là tiền bẩn thỉu. Hồ Tôn Hiến thừa biết đó là thằng con chẳng ra gì của mình, nhưng không dám to tiếng, đành nghiến răng nuốt giận vào lòng, tự nhận là đen đủi.
Một đồng đảng nữa của Nghiêm Tung là Yên Mậu Khanh cũng giẫm phải chiếc đinh mềm của Hải Thuỵ. Yên Mậu Khanh phụng mệnh khâm sai tuần tra nghề muối ở Chiết Giang, từng có thông lệnh nói rõ “mọi thứ đơn giản, không thích nghênh đón”, vì vậy “chuyện ăn uống, nghỉ ngơi phải lấy đơn giản làm đầu, không được quá xa hoa, lãng phí”. Đây chỉ là vở diễn để loại người này mua danh chuốc tiếng, muốn là tấm gương cần kiệm, chất phác, thực chất là vừa muốn làm kỹ nữ vừa muốn được lập bia trinh tiết. Vì vậy, các quan viên ở dọc đường đi, đều không cho là thật, họ tiếp đãi cực kỳ xa xỉ, đương nhiên, người dân phải chịu mọi chi phí. Nhưng Hải Thuỵ lại có thiệp bẩm dâng lên một cách nghiêm chỉnh, “Thiệp bẩm của Hải Thuỵ - tri huyện huyện Thuần An, phủ Nghiêm Châu”. Trước hết, thiệp ghi nguyên văn thông lệnh của Yên Mậu Khanh, tiếp đến mới nói, được biết những nơi khâm sai đã đi qua, việc chiêu đãi và tiếp đón lại khác hẳn với lời trong thông lệnh. Không những bày tiệc rượu, mà còn phải cung ứng cả đàn bà, mỗi tiệc rượu phải chi đến ba, bốn trăm lạng bạc, ngay cả bô tiểu tiện cũng phải làm bằng bạc. Vì vậy hạ quan mới mụ mẫm không rõ, làm vậy là theo yêu cầu của thông lệnh hay là theo các thể lệ trước đây? Làm theo yêu cầu của thông lệnh ư, e rằng họ đã khiếm nhã với đại nhân; làm theo tiền lệ ư, e rằng họ đã phản lại thiệt mong đại nhân minh xét, cuối cùng phải làm như thế nào? Yên Mậu Khanh xem xong thiệp bẩm, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, đành phải bỏ Nghiêm Châu, đi vòng theo đường khác.
Cách làm của Hải Thuỵ không chỉ làm cho Yên Mậu Khanh phải khiếp sợ, mà ngay cả tri phủ Nghiêm Châu cũng phải sợ. Tri phủ đã nổi giận nói với Hải Thuỵ, vì sao ông lại gây thị phi như vậy. Hải Thuỵ không đối đáp, cũng không biện bạch, chờ khi tri phủ bớt giận mới xin lui. Về sau, tri phủ đại nhân thấy hành động của Hải Thuỵ không gây hậu quả, nên mới cảm kích nói với Hải Thuỵ: “Trăm họ Thuần An thoát nạn, đã làm khó cho ông! Đúng là làm khó cho ông!”.
Có điều lần này tri phủ đại nhân đã lầm. Hải Thuỵ thẳng thắn chống lại bề trên, đến khâm sai đại thần cũng chẳng nể nang, lẽ nào không bị báo thù? Quả nhiên, lúc Hải Thuỵ vừa nhận lệnh điều lên làm thông phán ở Gia Hưng, đang chuẩn bị bàn giao với tri huyện Thuần An mới thì Viên Thuần ở kinh thành đã hạch tội Hải Thuỵ. Viên Thuần là đồng đảng của Nghiêm Tung, là bè bạn chó mèo với Mậu Khanh. Lúc hắn làm ngự sử tuần tra muối ở Chiết Giang, hắn được Hải Thuỵ chiêu đãi thật khiếm nhã và còn ầm ĩ với Hải Thuỵ, hắn hạch tội Hải Thuỵ “tự cao tự đại, không chịu an phận”. Dù Hải Thuỵ vô tội, dù Nghiêm Tung đã bị bãi chức, Yên Mậu Khanh đã bị sung quân, cũng không mấy ai quan tâm tới viên quan thất phẩm nhỏ nhoi, xuất thân là cử nhân, đã không có chỗ dựa, tính khí lại cổ quái. Lúc này các đại thần trong triều đang mải mê phân chia lại quyền lực và lợi ích. May sao có Chu Hoành, trước kia là cấp trên của Hải Thuỵ, giờ là thị lang bộ lại, ra sức tiến cử Hải Thuỵ với thượng thư bộ lại Nghiêm Phúng. Hải Thuỵ sau lúc bị miễn chức, lại được điều làm tri huyện Hưng Quốc.
Theo lý mà nói, một người như Hải Thuỵ, không biết bợ đỡ cấp trên, luôn gây chuyện thị phi có thể giữ được chức vị huyện lệnh thất phẩm đã là may mắn lắm rồi! Hải Thuỵ chỉ đáng được điều đi điều lại qua mấy huyện nhỏ, nghèo khổ, hoặc được thăng làm lục phẩm rồi về nghỉ. Nhưng Hải Thuỵ đã có vận may thật đặc biệt. Nghiêm Tung bị đổ đã kéo theo hàng loạt phản ứng, người ta bắt đầu xem xét về con người, về sự việc khi Nghiêm Tung còn nắm quyền. Chốn quan trường Trung Quốc xưa nay luôn coi trọng quan hệ giữa con người. Nghiêm Tung đổ, bọn Hồ Tôn Hiến, Yên Mậu Khanh do Nghiêm Tung vực dậy, nhiệm dụng cũng chẳng còn gì. Mấy người đó được coi là kẻ xấu, và những ai trước đây phản đối họ đều trở thành người tốt. Đó cũng là logic thường dùng trong đấu tranh chính trị ở Trung Quốc, xưa nay luôn là vậy. Hải Thuỵ lúc này là người tốt nhất, là đại anh hùng, vì đã dám chống lại bọn quyền thần, khi nhắc tới ai ai cũng thấy sợ, một anh hùng như vậy, nếu không được thăng quan khen thương, không được trọng dùng, thì đế quốc này không chỉ đáng sỉ nhục mà bộ lại cũng thất chức nghiêm trọng. Thế nên, chỉ nửa năm sau khi là tri huyện Hưng Quốc, Hải Thuỵ được điều về Bắc Kinh, nhận chức hy chủ sự ở bộ Hộ, Vân Nam (quan hàm lục phẩm).
Chủ sự bộ Hộ là chức quan không to không nhỏ, không lên không xuống. Đúng như Hoàng Nhân Vũ từng nói: “Các thượng thư, thị lang vạch ra cương lĩnh, chính sách, còn các viên lại thì phụ trách các chi tiết về mặt kỹ thuật thực hiện. Một chủ sự như Hải Thuỵ không nhất thiết hàng ngày phải đến văn phòng bộ, trừ phi muốn tích luỹ thêm kinh nghiệm làm quan”.
Nhưng Hải Thuỵ vốn là người không ưa nhàn rỗi, là người thích làm việc, thích suy nghĩ, là người có trách nhiệm với vua với nước và chỉ biết tiến không biết lùi. Dù là chức quan được nhàn rỗi, Hải Thuỵ luôn không muốn phí thời gian vào những chuyện vô bổ. Không có việc nhỏ, Hải Thuỵ đành phải suy nghĩ việc lớn. Lúc này, Hải Thuỵ đã xâm nhập vào cơ quan trung ương (dù là chức vị thấp đến đáng thương, lại cách trung tâm rất xa), không còn là viên quan địa phương bị nhiều hạn chế, đã có thể suy nghĩ về một số vấn đề từ góc độ lịch sử và toàn cục. Lúc này công việc của Hải Thuỵ không quá nặng nề, bề bộn như thời còn là huyện lệnh, hàng ngày phải xử lý nhiều sự vụ cụ thể, vụn vặt. Lúc này Hải Thuỵ đã có đủ thời gian suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác. Hơn nữa, cũng giống như các nho sinh tự cho mình là phi phàm, là có trách nhiệm với thiên hạ, Hải Thuỵ không vừa ý về hiện trạng của đất nước, thấy cần phải nói rõ những suy nghĩ, những ý hay của mình về triều chính, về thời cuộc. Đất nước ngày nay không chỉ kém xa lúc thái bình thịnh thế của Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, thời Khổng Phu Tử thiết kế, mà bốn phía còn nhiều nguỵ cơ. Hải Thuỵ thấy mình không thể cứ yên lặng mãi. Yên lặng là thiếu trách nhiệm, là có tội với lịch sử, đất nước, với quân vương, tiên tổ. Cảm giác chính nghĩa, cảm giác sứ mệnh nổi lên tự đáy lòng, Hải Thuỵ thấy phải phát động tiến công.
  

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng EmptySat Sep 27, 2014 11:17 am

Lúc này Hải Thuỵ đã chĩa thẳng đầu mâu cuộc tranh đấu về phía đương kim hoàng thượng.
Tháng hai năm Gia Tĩnh thứ bốn mươi lăm (năm 1566), sau một năm rưỡi kể từ lúc Hải Thuỵ vào kinh, vị quan lục phẩm (chức vị thấp kém, lúc nào cũng lo việc nước) đã có “sớ thẳng thắn bàn chuyện thiên hạ” trình lên hoàng đế Gia Tĩnh. Hải Thuỵ thừa hiểu, hoàng đế đương triều chỉ thích nghe lời khen, không thích nghe lời phê bình, nên mở đầu đã nói, điều mấu chốt để một vị hoàng đế đủ tiêu chuẩn là: Khiến thần dân dám nói và nói hết những điều đã biết. Tiếp đến, mới dốc hết nỗi lòng để phê bình Gia Tĩnh. Hải Thuỵ chỉ rõ, về “thiên chất anh minh quả đoán” thánh thượng hơn hẳn Hán Văn đế Lưu Hoàn, nhưng về nhân đức chính tích, thánh thượng lại kém xa Hán Văn đế. Hán Văn đế sáng tạo nên “Văn Cảnh chi trị” nổi tiếng trong lịch sử, còn cục diện thánh thượng sáng tạo là “quan tham hoành hành, dân hết đường sống, thuỷ tai triền miên, giặc cướp khắp nơi”. Vì sao lại như vậy, vì hoàng đế hôn dung đa nghi, cứng rắn tàn nhẫn, ích kỷ hư vinh, tức là hôn quân, bạo quân. Hải Thuỵ còn chỉ rõ, nhìn từ góc độ chính trị, Gia Tĩnh không phải là một vị vua tốt, nhìn từ góc độ luân lý cũng không phải người đàn ông tốt. Nếu cân nhắc từ “tam cương” - quân thần, phụ tử, phu thê, thì hoàng đế phải là mẫu mực về đạo đức của toàn thể thần dân thiên hạ. Đằng này, bệ hạ lại chưa đủ “nhất cương”: Hoài nghi, mắng chửi, giết hại thần liêu bừa bãi, không đáng là vua; đối với con đẻ không hề giáo dưỡng, không thèm nhìn mặt, không đáng là cha; không ở cùng hoàng hậu, trốn ở Tây uyển luyện đan, không đáng là chồng. Chẳng trách khắp trăm họ thần dân trong thiên hạ từ lâu đã cho rằng bệ hạ không đúng! Chẳng trách, trăm họ đã lấy niên hiệu của bệ hạ để biểu hiện lòng bất mãn với bệ hạ, họ nói, Gia Tĩnh, Gia Tĩnh” cái gì, tức là “nhà nhà đều tịnh” (chẳng có một thứ gì)! Kỳ thực, yêu cầu của thần dân cũng chẳng cao xa gì, chỉ mong sao quan phủ vơ vét ít đi một chút, chính quyền chăm lo nhiều hơn một chút, án oan sai giả ít hơn một chút, không khí xã hội trong lành hơn một chút. Đó là mấy việc rất dễ, “vì sao bệ hạ lại không làm?”. Nếu làm cũng không khó, vậy nên “tỉnh ngộ mau chóng, để rửa sạch những sai lầm tích tụ hàng mấy chục năm nay”. Thực tế, là do loạn chính, nên chỉ cần “một lần chấn chỉnh là xong”, vậy mong bệ hạ hãy chấn chỉnh!
Tấu sớ như vậy chưa hề có tiền lệ trong lịch sử. Đúng như Hoàng Nhân Vũ từng chỉ rõ, trước đây các gián thần thường phê bình việc, chỉ có Hải Thuỵ là phê bình người với một khẩu khí thẳng thắn, bức ép! Vì vậy, tấu sớ vừa trình lên đã có sóng to gió lớn, Hải Thuỵ cương trực đã nổi danh thiên hạ. “Trên từ cửu trùng, dưới đến mặt đất, trong ngoài, không ai là không biết có ngài chủ sự họ Hải”.
Hoàng đế Gia Tĩnh cũng đã xem hết bản sớ tấu. Sớ tấu thế này xưa nay chưa từng có (cũng chưa có ai đọc qua), có thể vì hiếu kỳ nên ngài cũng muốn đọc hết. Nhưng xem xong tất sẽ phẫn nộ. Nghe nói hoàng đế xem xong đã vứt sớ tấu xuống đất, nổi giận bừng bừng, gào thét: “Bắt ngay thằng cha đó, đừng để hắn chạy thoát!”. Nhưng việc làm của Hải Thuỵ lần này là hết sức phi thường, cảm động đến cánh thái giám, cung nữ, họ rất kính phục. Thế là có hoạn quan Hoàng cẩm quỳ lạy và tâu rằng: “Vạn tuế gia không phải bực. Nghe nói con người này vốn có tiếng điên cuồng, trước khi dâng sớ hắn đã mua sẵn quan tài, từ biệt gia nhân, sắp xếp hậu sự. Hắn sẽ không chạy trốn”. Gia Tĩnh nghe xong đã thở dài, rồi nhặt tờ sớ lên, đọc lại lần nữa.
Nghe nói, Gia Tĩnh cũng thấy những điều Hải Thuỵ nói là thật. Đã nhiều lần Gia Tĩnh thổ lộ điều này với thủ phụ Từ Giai(2). Gia Tĩnh coi Hải Thuỵ là trung thần cuối thời Ân, nhưng lại không chịu nhận mình là Trụ vương. Gia Tĩnh thừa nhận Hải Thuỵ có lý, nhưng lại cho rằng mình đã già bệnh nặng, nên không sửa đổi được. Do vậy, Gia Tĩnh chỉ còn cách đánh mắng cung nữ để hả giận. Sau một thời gian như vậy, Gia Tĩnh lại cho bắt Hải Thuỵ, giao cho cẩm y vệ thẩm vấn, khép vào tội chết, nhưng Gia Tĩnh vẫn chưa phê chuẩn án tử hình của Hải Thuỵ và giao tiếp sang Đông xưởng để giám sát. Mười tháng sau, Gia Tĩnh qua đời, trở thành vị hoàng đế biết mình sai nhưng “Chết cũng không hối cải”(3). Tin tức truyền tới, ngục tốt lấy rượu chiêu đãi Hải Thuỵ, chúc mừng Hải Thuỵ có hy vọng được thả, nhưng Hải Thuỵ đã khóc ầm lên, rồi nôn mửa, cuối cùng thì ngã vật xuống đất.
Sau khi vua mới là hoàng đế Long Khánh lên ngôi, Hải Thuỵ được ra ngục. Lúc này Hải Thuỵ trở thành anh hùng tiếng tăm vời vợi, khắp cả nước không ai là không biết. Rất mau chóng, Hải Thuỵ được phục chức, thăng quan liên tiếp, lên các chức hàm như đã nói. Sự thực thì không thăng cũng không được. Không hề có vị quan nào trong bộ Lại dám phản đối việc thăng tiến của người anh hùng cả nước biết tiếng này, và cũng không ai nghi ngờ gì về phẩm hạnh, đạo đức của Hải Thuỵ. Chỉ trong một thời gian ngắn, Hải Thuỵ từng bước từng bước thẳng đến chức tuần phủ Úng Thiên, sau này vì bị hạch tội, nên buộc phải từ chức.
Lần thứ ba bị bãi quan hoàn toàn do Hải Thuỵ tự chuốc lấy. Theo suy nghĩ của nội các và bộ Lại, cách sắp xếp tốt nhất với Hải Thuỵ là để Hải Thuỵ đảm nhiệm chức vụ chức hàm cao nhất, quyền lực ít nhất, Hải Thuỵ còn sống mà như khối đá trong miếu đường. Như vậy là hợp với mọi người cũng như với bản thân Hải Thuỵ. Vì tinh thần của Hải Thuỵ rất đáng hoan nghênh nhưng cách làm của Hải Thuỵ không mang lại hiệu quả. Nếu mọi người đều giống như Hải Thuỵ, bỗng dưng nói thẳng phạm thượng, có những lời phê bình gay gắt, không thể tiếp thu, thì thể thống triều đình sẽ ra sao, thể diện quan phủ sẽ như thế nào? Một vị quân chủ và thời đại sáng suốt nên cho mọi người có quyền được nói, nhưng sự sáng suốt này cũng chỉ là thứ trang sức, thứ điểm xuyết, không thể là đúng cách và việc dâng thư như kiểu Hải Thuỵ cũng chỉ lần một, lần hai, không thể có lần thứ ba. Hơn nữa, một người như Hải Thuỵ dám mắng chửi cả hoàng đế thì dù bố trí ở đâu cũng chỉ có hại, thêm phiền hà. Một khi để xảy ra chuyện đó, không chỉ làm mọi người mất mặt mà ngay cả bản thân Hải Thuỵ cũng chẳng gặp hay ho gì. Vì vậy cách sắp xếp của nội các, của bộ Lại được coi là cách bảo vệ Hải Thuỵ.
Nhưng Hải Thuỵ lại không hiểu. Với sứ mệnh và trách nhiệm, Hải Thuỵ không cho phép mình trở thành kẻ chiếm chức vị, ngồi không ăn bám. Hải Thuỵ cũng không hiểu vì sao triều đình tỏ vẻ tôn trọng nhưng lại không tín nhiệm mình và Hải Thuỵ hoàn toàn không muốn phí thời gian vào chức vị nhàn nhã, tẻ nhạt đó. Hải Thuỵ quyết định kháng nghị. Nói cách khác là cho nội các một đòn. Hải Thuỵ đã có cơ hội tốt, đó là “năm kinh sát” (năm 1569). Kinh sát là chế độ khảo sát thành tích các quan ở kinh thành, cứ sáu năm lại diễn ra một lần, các quan từ tứ phẩm trở lên phải làm bản kiểm điểm. Nhân đó, Hải Thuỵ liền có tấu sớ dâng lên hoàng đế, nói những quan viên giống như mình, không có cống hiến lớn lao gì cho đất nước, nên cách chức cho lui, ý là “làm quan không làm việc cho dân, nên cho về quê bán khoai lang”.
Nội các và bộ Lại thật đã hết cách với quái nhân cắn không vào, luộc không nhừ, giết không chết, doạ không sợ và chết không mở mắt này. Thậm chí họ không hiểu con mọt sách từ xa, từ ngoại tỉnh đó là ngây thơ thực hay giả vờ ngây thơ. Nếu là giả vờ ngây thơ, nên người đó mới cho rằng, chỉ cần được trọng dụng, thì với chính khí bản thân và tinh thần dũng cảm tiến bước, là có thể nhanh chóng quét sạch tệ nạn trong thiên hạ, chỉnh đốn lại thói xấu nơi quan trường. Nói người đó là thực sự ngây thơ, nhưng sao người đó lại biết đường tiến đường lui, biết cách mặc cả, trả giá? Nhưng nói gì thì nói, lúc này Hải Thuỵ đang nổi tiếng, không ai dám bãi dám truất. Đã không thể bãi truất, thì chỉ có thể để Hải Thuỵ một chức vị hữu danh vô thực, là tuần phủ Ứng Thiên, trú tại Tô Châu. Dù là ở xa, nhưng ở xa cũng có cái hay của ở xa: Hoàng thượng và nội các sẽ không nhìn thấy, sẽ không phiền lòng, đỡ ầm ĩ hơn.
Hải Thuỵ quyết tâm làm mạnh, muốn lấy thiện trị ác, chỉnh sửa phong tục, trở thành một mẫu mực. Với khí thế mạnh mẽ áp đảo đó, bọn tham quan ô lại cùng bọn thổ hào thân sĩ ác độc nghe đã thấy khiếp vía. Cửa lớn các nhà thân sĩ đang từ mầu đỏ, sơn lại màu đen, để tỏ ra mình là giản dị. Cả thành Tô Châu lúc đó, nhà nhà như đang có tang. Thái giám Chức Tạo ở Giang Nam khét tiếng gian trá tàn bạo cũng phải cụp đuôi, phu khiêng kiệu của hắn đang từ tám người, nay giảm xuống còn bốn. Nhưng Hải
Thuỵ vẫn cảm thấy như chưa đã, liền có lệnh: Phàm là công văn trong nước, từ nay nhất loạt dùng loại giấy rẻ tiền. Mặt sau công văn không được để trống, khỏi lãng phí. Thậm chí, Hải Thuỵ còn can dự vào sinh hoạt riêng tư của quan dân, như đeo đồ trang sức xa hoa và ăn uống quà vặt ngon ngọt nằm trong các mục cấm. Các hạng mục bị cấm từ khăn Lăng Vân Trung Tĩnh, giấy Hồng uỵển Tát Kim cho đến bày tiệc có kẹo chóp và bánh rán. Rõ ràng những quy định đó là vụn vặt, khắt khe, nhưng Hải Thuỵ không nghĩ vậy. Căn cứ vào nguyên lý “đê dài ngàn dặm sẽ vỡ vì một tổ kiến nhỏ”, dựa vào nguyên tắc “đừng thấy thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy ác nhỏ mà cứ làm” nên Hải Thuỵ kiên quyết làm như vậy, làm tới cùng. Mấy việc làm vặt vãnh đó lại gần với phong hoá và đạo đức. Dù là thiện nhỏ cũng nên khen thưởng, dù là ác nhỏ cũng phải loại bỏ. Muốn làm việc lớn phải làm từ việc nhỏ, vì vậy, mấy việc nhỏ này cũng chính là việc lớn. Muốn xây dựng lại đạo đức, không thể không chú ý tới những việc cụ thể, bằng không, sẽ chỉ là những khẩu hiệu rỗng tuếch.
Trên thực tế, Hải Thuỵ muốn thông qua việc thi hành những quy định cụ thể kia để thực hiện kế hoạch chỉnh đốn lại chính trị của mình. Ví dụ, để chỉnh đốn lại phong trào sĩ đại phu Giang Nam vào ra cung phủ nhằm câu kết với nhau, cử nhân, giám sinh muốn đến nha môn, bái kiến các quan, hoặc thư tín đi lại, cần phải đăng ký trước. Nội dung đăng ký là nội dung chủ yếu của buổi trò chuyện, trong thư tín; quan lại ra ngoài, phải cho biết đi những đâu, nói những gì. Phàm những ai không đăng kỷ, đăng ký dối trá hoặc sau sự việc lại sửa đổi nội dung; thì quan viên và người đăng ký đều bị trừng phạt. Đối với những quan viên đi lại công tác, Hải Thuỵ cũng không vị nể, mà quy định họ phải tự thuê thuyền và lái thuyền, địa phương chỉ có trách nhiệm chi thêm phụ phí. Nếu là quan nhị đẳng đi thuyền nhất đẳng, chỉ được chi tiền thuyền nhị đẳng, nếu được dùng một thuyền mà thuê tới hai thuyền, chỉ được chi tiền một thuyền. Hải Thuỵ cho rằng, làm như vậy những kẻ nghênh tiếp bợ đỡ sẽ hết cách, bọn quan lại mượn cớ tuần thú để vơ vét của dân cũng sẽ chẳng được gì, hơn thế, còn giúp chúng ta chỉnh đốn không khí nơi quan trường, vì vậy cần phải kiên quyết chấp hành.
Hải Thuỵ đấu trí dâng cao, thi hành mạnh mẽ những biện pháp liêm chính của mình, là hợp với đạo nghĩa, cả giới quan trường Trung Quốc đã náo loạn. Hành động của Hải Thuỵ làm họ kinh hồn thất sắc và tức giận phẫn nộ. Mọi quan viên gần như nhất trí, xưa nay chưa từng thấy có vị quan lớn tổng đốc tuần phủ nào lại quái dị, gàn bướng, không thấu tình đạt lý, coi đồng liêu của mình, coi các quan lại có qua lại như thù địch đến như vậy. Các quan viên kinh thành, ở tỉnh ngoài, mỗi khi vào địa hạt của Hải Thuỵ, chẳng khác gì phải vào nước Địch; bọn quan viên dưới quyền, nhất cử nhất động đều phải ghi sổ, giống như một can phạm. Giới quan trường không thể dung được một tuần phủ cổ quái như vây, sớ tấu đàn hặch Hải Thuỵ không ngừng được dâng lên ngự tiền. Sớ tấu của cấp sự trung Thư Hoá được coi là đúng mực, nói Hải Thuỵ từ lâu đã nổi tiếng vì phong tiết, là đại thần cương trực, nhưng chính lệnh lại quá hà khắc, “e mất hết tình người”. Đới Phượng Tường lại công kích quá mãnh liệt, thậm chí còn vu khống Hải Thuỵ phạm tội mưu sát, vì một thê một thiếp của Hải Thuỵ đã cùng lúc chết một cách khó hiểu vào một buổi tối. Hải Thuỵ đã phải trả lời, người thiếp tự sát vào ngày mười bốn tháng tám, người vợ ốm và qua đời ngày hai mươi lăm tháng tám, không phải chết cùng ngày, nhưng ngày chết lại quá gần nhau, đủ để mọi người phải nghi ngờ. Mọi người còn tin rằng, gia đình Hải Thuỵ xuất hiện bi kịch là điều đương nhiên, vì tính cách Hải Thuỵ vừa xa với nhân tình vừa gàn dở quái dị. Thậm chí mọi người cũng không lạ gì về tính cách của Hải Thuỵ. Hải Thuỵ là người sống ở miền xa xôi, ở cực nam của đất nước, là anh chàng nhà quê thiếu hiểu biết Hải Thuỵ có thể là người thiểu số, là người ngoại quốc.
Cách giải quyết của nội các, bộ Lại vẫn là điều nhiệm Hải Thuỵ vào một chức quan nhàn nhã, nhưng dường như nỗi bực tức Hải Thuỵ còn hơn cả sự phẫn nộ của quan trường. Ông viết thư cho hoàng đế Long Khánh: “Ngày nay, các quan cả triều đều là lũ đàn bà, hoàng thượng không nên nghe lời họ”. Còn Hải Thuỵ, đương nhiên không muốn đứng cùng hàng ngũ với những con người không giống đàn ông nọ, Hải Thuỵ tức giận, bỏ về quê nhà tận Hải Nam và ở đó liền trong mười lăm, mười sáu năm.
Chú thích


(1) Theo chế độ thời Minh, cơ quan giám sát trung ương là đô sát viện. Quan viên có 4 cấp: Đô ngự sử, đô phó ngự sử, thiên đô ngự sử, giám sát ngự sử. Trưởng quan tối cao là tả, hữu đô ngự sử.
(2) Thời Minh lập nước chưa lâu, Chu Nguyên Chương bãi bỏ chức vị thừa tướng và chế độ thừa tướng, chức thủ phụ ngang với chức thừa tướng (Tác giả).
(3) Trong “Thế Tông di chiếu”, Gia Tĩnh đã thừa nhận sai lầm của mình.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





Luận Anh Hùng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Luận Anh Hùng
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next
 Similar topics
-
» Luận bàn về kiếp luân hồi
» ***Khổng Tử***
» Bàn luận về người tốt
» Nguyễn Trãi – Anh Hùng Dân Tộc
» TỬ CỐNG HÙNG BIỆN VỀ KHỔNG TỬ

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Thảo Luận-
Chuyển đến